Vietnamville http://www.vietnamville.ca

Tháng tư 75: Lệnh rút khỏi Huế của Tổng thống Thiệu
11.04.2019

Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng

Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Trân Công chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ.

Gửi đến BBC từ Virginia, Hoa Kỳ

Đại nội Huế, xe xích lô đợi đón du khách nước ngoài, 2007Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM / GETTY IMAGES
Image captionĐại nội Huế


Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi tắt là Thuận Hóa. Chữ 'Hóa' dần dần đọc trại đi thành "Huế."

Câu chuyện lãng mạn ấy đi đôi với cái phong cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất này. Lăng tẩm, Thành nội, Thành ngoại, đầm sen tỏa hương thơm ngát. Rồi những buổi chiều tím, những đêm trăng mờ, những con đò nho nhỏ.

"Năm năm vàng son" của Việt Nam Cộng Hòa

Tổng thống Thiệu ra lệnh khai hỏa ở Hoàng Sa

Nixon đã cản trở hòa đàm ở Việt Nam thế nào?

Nếu ta dừng lại ở vài bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên dòng Sông Hương thì sẽ thấy lòng mình lắng xuống, rồi như bị cuốn vào với tiếng chuông chùa, ngân vang vào không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông Hương?

Cái cảnh nửa đi nửa ở không phải chỉ ám ảnh người lữ khách khi phải lìa xa nơi Cố đô, nhưng nó còn làm cho các nhà quân sự trăn trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh Kỳ vào cuối tháng Ba năm ấy. Lúc thì cố thủ, lúc thì rút quân, rút xong lại muốn quay về giữ Huế, cứ dùng dằng mãi.

Quyết định rút khỏi Huế

Trong một báo cáo tối mật của Tướng Fred Weyand gửi Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm chiến trường Miền Nam vào cuối tháng Ba 1975, ông nói tới hậu quả bi đát của việc cúp hết viện trợ làm tê liệt khả năng chiến đấu của Việt Nam Cộng hòa.

Về cuộc họp tại Dinh Độc Lập trước khi bỏ Huế (13/3), ông bình luận:

"Trong mười hai ngày tiếp theo sau buổi họp này (từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao (critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sài Gòn về việc nên giữ lại những phần nào ở Quân đoàn I, nhất là về việc có nên hay không nên giữ Huế."

"- Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được Huế không?"

Tổng thống Thiệu hỏi Tướng Ngô Quang Trưởng qua điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng Ba 1975.

Một cuộc họp tại Dinh Độc Lập dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Thiệu lúc 9 giờ 30 sáng. Hiện diện: ngoài Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm còn có:

Về phía quân sự: Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Trung tướng Đồng Văn Khuyên.

Về phía dân sự: Ngoại trưởng Vương Văn Bắc, Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng.

Khi mọi người đã đến đông đủ, một bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ phòng họp. Những điểm mầu đỏ đánh dấu vị trí đồn trú của quân đội Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên tường đã mọc lên như nấm. Cuộc duyệt xét tình hình quân sự bắt đầu.

Sau khi Tướng Khuyên trình bày về tình hình QK I và II, Tổng thống Thiệu nhấc máy điện thoại gọi Tướng Trưởng hỏi xem có giữ được Huế hay không. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia:

Trung tướng Trưởng: "Nếu có lệnh, thì giữ."

Tổng thống Thiệu: "Liệu giữ được bao lâu?"

Trung tướng Trưởng: "Ngày một ngày hai."

Tổng thống Thiệu: "Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ."

Vì những biến cố về Huế còn đặt ra nhiều nghi vấn nên chúng tôi đã ghi lại thật rõ trong cuốn sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu về những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có liên hệ tới Quân đoàn I vào tháng 3/1975, cùng với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung tướng Trưởng. Thêm vào đó là tường thuật của Đại tướng Viên và những tài liệu của Hoa Kỳ (xem Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 3).

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong chuyến công du tới Anh, 10/4/1973Bản quyền hình ảnhKEYSTONE/GETTY IMAGES
Image captionTổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong chuyến công du tới Anh, 10/4/1973

Cuộc họp tại Dinh Độc Lập ngày 19 tháng 3

Trong bối cảnh ấy thì sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng bay vào Sài Gòn để trình bày kế hoạch rút lui lên Tổng thống, lần này có sự hiện diện của cả Phó Tổng thống Nguyễn Văn Hương.

Sự hiện diện của cụ Hương là việc bất thường, vì xưa nay khi bàn chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc đó, ông phải nhờ đến sự ủng hộ của Phó Tổng thống để thuyết phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế.

Theo Đại Tướng Viên thuật lại trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH (trang 162-163):

"Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:

  • Kế hoạch thứ nhất: nếu Quốc lộ 1 (QL 1) còn sử dụng được, quân ông sẽ rút từ Huế về Đà Nẵng và từ Chu Lai về Đà Nẵng;
  • Kế hoạch thứ hai: nếu QL 1 bị cắt, các lực lượng sẽ rút vào ba cứ điểm là Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng, nhưng Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân để cuối cùng thì rút về Đà Nẵng bằng đường biển. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chánh do bốn sư đoàn bộ binh và bốn liên đoàn BĐQ đảm nhận.

Vì lúc ấy "không thể rút quân theo kế hoạch thứ nhất được vì đoạn đường Huế-Đà Nẵng, Chu Lai-Đà Nẵng đã bị chốt, làn sóng tỵ nạn lại đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để chạy về Đà Nẵng, nên Tướng Trưởng kết luận: 'Chúng ta chỉ có một chọn lựa, và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trễ.'

Chọn lựa của tướng Trưởng là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống cự."

Trong cuộc họp ngày 19/3, Tổng thống Thiệu kể lại là ông đã miễn cưỡng chấp thuận kế hoạch thứ hai của ông Trưởng vì ông Trưởng nói không còn đường nào tháo lui khỏi Huế được nữa vì QL 1 đã bị chặn: "Tôi nói với Tướng Trưởng là mặc dầu lịch sử có thể phán xét tôi như một thằng ngu (imbécile) nhưng vì lòng tôi đối với đất nước, tôi đồng ý." Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra khỏi Dinh Độc Lập và nói: "Tôi đợi đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh."

Tổng thống Thiệu thêm: khi về tới Đà Nẵng thì "Ông Trưởng gọi điện thoại để yêu cầu tôi hãy hoãn lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên đài phát thanh, vì có thể ta không giữ nổi Huế." Tôi hỏi tại sao Tướng Trưởng lại thay đổi?

Tổng thống Thiệu trả lời: "Lý do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm Quang) Thi, Tư lệnh phó QĐ I báo cáo là quân đội Bắc Việt đã bắt đầu pháo vào Bộ chỉ huy rồi."

Việc Tướng Thi báo cáo Bộ tư lệnh của ông đã bị pháo thì Đại tướng Viên cũng xác nhận trong cuốn hồi ký của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng việc Tướng Trưởng xin hoãn tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh thì chưa thấy ai nói tới.

Cũng theo lời Tổng thống Thiệu, vì ông đã miễn cưỡng đồng ý với Tướng Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói thêm về việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng biết là cả Phó Tổng thống, cả Thủ tướng đều chống lại việc giữ cả hai nơi - Huế và Đà Nẵng- cùng một lúc.

Nhưng mặc dù Tổng thống Thiệu tỏ ý dè dặt, Tướng Trưởng vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa Huế, Chu Lai và Đà Nẵng, vì Quốc Lộ 1 đã bị chận rồi, không thể rút được nữa, vả lại ông cho rằng Tổng thống tuy dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó.

Vào thời điểm này thì Đài BBC luôn loan báo đầy đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và tiên đoán là quân đội Bắc Việt sẽ tới vùng phụ cận Sàigòn trong vòng vài ba tuần lễ vì Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đã mở rộng. Đài VOA thì tường thuật về vụ nhóm Dân chủ ở Hạ viện đã bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho Miền Nam (ngày 12 tháng Ba) với số phiếu 189-49; rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với số phiếu 34-6.

Binh sĩ nghe liên tục như vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền Trung, đơn xin tiếp liệu về thực phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đình binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp bay về Sàigòn, nhưng chính phủ trung ương đã hầu như cạn kiệt.

Năm ngày trăn trở về Huế

Ngày 23 tháng Ba 1975, theo Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn trong hồi ký Đất Nước Tôi: "Tướng Trưởng họp bộ tham mưu tại Đà Nẵng, ra chỉ thị cho Tướng Thi tử thủ Huế nhưng đồng thời phải có kế hoạch để sẵn sàng di tản về Đà Nẵng nếu tình thế đòi hỏi. Đến đây ai cũng nhận thấy tình hình cố đô Huế rất nguy kịch, nếu không nói là tuyệt vọng." Sau đó, sáng ngày 24 tháng Ba, Tướng Thi và Bộ Tư lệnh tiền phương đáp tầu Hải quân đi Đà Nẵng…"

Image result for Huế tàn phá mậu thân

Huế từng bị tàn phá Têt Mậu Thân

Ngày 25 tháng Ba, theo Đại tướng Viên:

"Tất cả các đơn vị của Quân đoàn I tụ lại tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể cả Hội An) và Bắc thành phố Huế… Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong cảnh tuyệt vọng như vầy… Trong tình thế thất vọng đó, Quân đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ Dinh Độc lập: Tổng thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của quân đoàn để phòng thủ Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC được đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng ra lệnh cho Sư đoàn 1BB và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng…"

"Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các đơn vị cơ hữu của sư đoàn rút ra Cửa Tư Hiền…" (sđd., 171).

Lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975

Như viện dẫn ở đầu bài, trong buổi họp ngày 25 tháng Ba, sau khi Tổng thống Thiệu hỏi Tướng Trưởng "nếu ông quyết định giữ Huế thì được bao lâu," ông Trưởng trả lời là chỉ giữ được "ngày một ngày hai," ông Thiệu lập lại cho mọi người nghe, rồi ra lệnh: "Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ."

Tới đây ông Thiệu không nhắc lại thêm các câu trả lời sau đó của ông Trưởng nữa. Ông đặt ống nói xuống, và nói: "Ông Trưởng rất depressed" (chán nản). Sau khi tham khảo với Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện cho Tướng Trưởng, đưa ra ba lệnh (và tôi ghi rất rõ ràng xuống cuốn sổ tay còn giữ được):

"Thứ nhất, bỏ Huế;

"Thứ hai, phải làm cho lẹ; và

"Thứ ba, tử thủ Đà Nẵng."

Tổng thống Thiệu thở dài: "Mình trông cậy vào ba 'enclaves' (cứ điểm), mà bây giờ chỉ còn một ở Đà Nẵng." Nghe vậy, ông Bắc và tôi bàng hoàng nhìn nhau. Như vậy là đã có lệnh chính thức bỏ Huế.

Trong cuốn 'Decent Interval,' tác giả Frank Snepp viết về lòng thương của Tướng Trưởng đối với binh sĩ và hậu quả như sau:

"Đang khi Tướng Trưởng trình bày với Tổng thống Thiệu về kế hoạch của ông thì số quân đội mà ông cần để thi hành này lại đang tan rã (disintegrating). Và đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to blame). Mấy ngày trước đó ông đã cho phép quân nhân của SĐ I được phép lo cho an toàn của gia đình họ. Ông đã làm như vậy là vì lòng thương của một tư lệnh đối với binh sĩ, nhưng khi Quốc Lộ I đã bị chận rồi thì chỉ thị này đã dẫn tới hỗn loạn, vì sĩ quan cũng như quân nhân đã bỏ đồn từng loạt để lo cho thân nhân tìm lối thoát."

Số phận quân nhân

Nơi đây, tôi mở ngoặc để nhắc lại về tình trạng kinh tế khó khăn của thân nhân người binh sĩ trước khi sụp đổ. Từ mùa hè 1974, sau khi giá xăng dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách không còn đủ khả năng tăng lương cho quân đội để đáp ứng với lạm phát vì viện trợ đã bị cắt gần hết.

Chính phủ chỉ định cho mỗi bộ nhận một sư đoàn để tìm cách giúp đỡ. Sư đoàn 1 được giao cho Bộ Kế hoạch.

Trong một chuyến đi Huế thăm sư đoàn này, chúng tôi được Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm đưa đi thăm hỏi gia đình binh sĩ.

Các binh sỹ Việt Nam Cộng hòa bị áp giải trên đường phố Sài Gòn sau khi quân miền Bắc chiếm được thành phố, đánh dấu sự kết thúc cuộc chiếnBản quyền hình ảnhAFP/GETTY IMAGES
Image captionCác binh sỹ Việt Nam Cộng hòa bị áp giải trên đường phố Sài Gòn sau khi quân miền Bắc chiếm được thành phố, đánh dấu sự kết thúc cuộc chiến

Ông tâm sự rằng để cho thân nhân sống trong các lều, bạt ngay sát trại như thế này thì thật là nguy hiểm khi bị pháo kích và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân, nhưng phải chấp nhận vì với số lương quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung với gia đình.

Thật vậy, với 20.000 đồng một tháng (mãi lực bằng khoảng $28 đô la), người quân nhân chỉ có thể mua gạo, nước mắm cho gia đình, còn lại rất ít cho những nhu cầu khác như thuốc men, may mặc, giáo dục con cái, giải trí.

Ngày 26 tháng Ba, 1975 một buổi họp tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ sáng. Có mặt tại buổi họp gồm Tổng thống Thiệu, Ngoại trưởng Bắc và chúng tôi.

Cuộc họp này là để bàn về việc tìm cách để cấp tốc khai thác hai bức thư của Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn viết cho hai Chủ tịch Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25 tháng Ba). Giữa cuộc họp thì Tổng thống Thiệu lại nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng Trưởng về Huế:

Tổng thống Thiệu: "Anh Trưởng hả? Tình hình Huế thế nào?'

Tướng Trưởng (theo như lời ông Thiệu nhắc lại trong phòng họp): "Đang bị đánh vài trận."

Cùng ngày bỏ Huế, Tổng thống Thiệu chỉ thị cho tôi trình ông bản thảo chót về bức thư cầu cứu Tổng thống Ford.

Mở đầu có câu: "Thưa Tổng thống, lúc lá thư này tới tay Ngài, thành phố Huế có lẽ đã bị bỏ ngỏ, và rất có thể chính Sàigòn cũng bị đe dọa."

Ông Thiệu gạch ngay câu mở đầu đi vì Huế đã bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu thư chúng tôi đề "Saigon, March…, 1975" để trống con số về ngày gửi, vì chưa biết ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông lấy bút chì xanh viết xuống số "25" thật to, tức là "Saigon, March 25, 1975".

Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo tôi đưa bản văn cho Chánh văn phòng tổng thống là Đại tá Cầm để cho đánh máy và chuyển cho Đại sứ Graham Martin ngay.

Gửi thư đi rồi, Tổng thống Thiệu chờ đợi từng giây phút về phản ứng của Tổng thống Ford.

US President Gerald Ford, US Secretary of State Henry Kissinger and Vice President Nelson Rockefeller discuss the evacuation of Saigon 28 April,1975 at the White House in Washington, D.C.Bản quyền hình ảnhNATIONAL ARCHIVES/AFP/GETTY IMAGES
Image captionTổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford, Ngoại trưởng Henry Kissinger và Phó tổng thống Nelson Rockefeller hôm 28/4/1975 đã thảo luận tại Tòa Bạch Ốc về kế hoạch di tản khỏi Sài Gòn

Nhưng nhận được thư SOS, Tổng thống Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên nhậm chức tổng thống thay Nixon vào mùa hè 1974 ông đã viết cho ông Thiệu ngay ngày làm việc đầu tiên tại Tòa Bạch Ốc:

"Những cam kết mà nước Mỹ đã hứa hẹn với Việt Nam Cộng hòa trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi" (thư ngày 10 tháng 8, 1974, xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196).

Tổng thống Ford chỉ làm một nghĩa cử để biểu diễn. Trong cuốn hồi ký A Time to Heal (1979) ông viết lại:

"Chiều ngày 25 tháng Ba (ngày 26 giờ Sài Gòn), tôi họp với các ông Kissinger, Scowcroft, Martin và Tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân. Mọi người đều biết là tình hình Miền Nam rất trầm trọng, nhưng chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi yêu cầu ông Weyand bay sang Sài Gòn sớm nhất có thể, ở đó một tuần rồi mang về một báo cáo đầy đủ."

Nói rằng "Chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào" thì đúng là nói dối.

Ông đã nhận được thư SOS của Tổng thống Thiệu và của lưỡng viện Việt Nam Cộng hòa, lại được nghe Đại sứ Graham Martin từ Sài Gòn về báo cáo. Sau này Đại sứ Martin còn nói lại với chúng tôi là sau khi ông họp nhiều lần với Tổng thống Thiệu, cũng như đã có đầy đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám đốc CIA ở Sài Gòn) cung cấp, ông đã báo cáo rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như vậy là trong hồi ký, trước sự đã rồi, Tổng thống Ford chỉ biện luận cho hành vi phản bội của mình.

Hồn khí linh thiêng nơi cố đô

Vừa rút khỏi Huế buổi sáng thì bưổi chiều lại một tin sét đánh, hy vọng cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa để có chút tiền sống cầm hơi đã bị tan biến.

Vào cuối năm 1974, một tia sáng loé lên. Có ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu cố đến Miền Nam. Vua Saud al Faisal cho biết ông có rất nhiều thiện cảm với nhân dân Miền Nam và đã bí mật đồng ý cho Miền Nam vay một số tiền để mua tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 474).

Thật là một cơ hội quý báu. Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến cứu. Vua Faisal bằng lòng cho vay dài hạn $300 triệu (để bù đắp cho số tiền vừa bị Quốc hội Mỹ vét nạo hết). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá khan hiếm những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn.

Nhưng đúng là "hoạ vô đơn chí." Những cái rủi ro nó hay theo nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi sửa soạn để cùng với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm phán, mong sớm có giải ngân, thì đùng một cái, vua Faisal bị chính cháu ruột mình sát hại một cách thảm thương ngay trong hoàng cung.

Chính phủ Miền Nam bàng hoàng. Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia buồn cùng Hoàng gia, nói tới nghĩa cử cao đẹp của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài về nơi cực lạc. Vì tình cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng hòa yêu cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện công cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đã vạch ra.

Thế nhưng, trong lúc tang gia bối rối, tình hình quốc nội xáo trộn, Hoàng gia Saudi đâu còn thời giờ hay tinh thần mà để ý đến chuyện của nước khác.

Đứng về khía cạnh tâm linh, tôi tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông vua xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng đã đến lúc vận nước suy tàn?

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).


Nếu mất Huế chính phủ của Tổng thống Thiệu đã sụp đổ ngay từ 1972

Thất bại ban đầu của VNCH ở Quảng Trị năm 1972 khiến Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) nêu nhận định rằng nếu Huế thất thủ, chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ sụp đổ theo.

Nhận định của CIA và của cả Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào tháng 5/1972, ba năm trước khi Sài Gòn sụp đổ, về tình hình Nam Việt Nam không hề là bí mật cho ai.

Đánh giá này được đăng tải rộng rãi ở Mỹ, như bài 'If Hue Falls, so May Thieu'trong bài gửi đi từ Sài Gòn trên New York Daily News 08/05/1972.

Một báo cáo khác của CIA ngày 07/06/1972 đánh giá chiến sự và vị thế chính trị của TT Thiệu cho thấy bức tranh khá mong manh của VNCH.

Hóa ra có tới hai 'Tháng Tư Đen'

30/04: Những xui xẻo định mệnh của VNCH

Về trận Phước Long ở Tây Ninh năm 1975

Việt Nam Cộng Hòa trước và sau Tết Mậu Thân 1968

Điểm nổi bật trong đánh giá của CIA là sự tồn vong của chế độ mà Tổng thống Thiệu lãnh đạo nay hoàn toàn dựa vào sức chiến đấu của quân đội.

Việc ông Thiệu hoàn toàn kiểm soát giới tướng lĩnh, và các ý tưởng đảo chánh trong họ đã biến mất, sau một giai đoạn đầy bất ổn 1963-67, cũng khiến ông Thiệu, dù sao đi nữa, vẫn là nhân vật mạnh nhất.

Lý do là "đối lập bên trong thì đã tan hàng (in obvious disarray), không còn năng lực tạo ra thách thức gì nghiêm trọng cho sự kiểm soát của ông".

Nguyễn Văn ThiệuBản quyền hình ảnhDAVID HUME KENNERLY
Image captionTổng thống Thiệu thăm nghĩa trang quân đội ở Thủ Đức - ảnh chụp năm 1973

"Các nhóm đối lập không cộng sản thiếu thống nhất và lãnh đạo để trình bày ra một liên minh hiệu quả cho phái chống ông Thiệu."

Thậm chí, các hành động chính trị hiệu quả của lực lượng cộng sản chống lại chính phủ trung ương "cũng yếu đi nhiều từ sau trận Tết Mậu Thân 1968".

Đặc biệt, CIA nhắc đến phái Phật giáo Ấn Quang trong một mục riêng và nhận định rằng đây là nhóm "biệt lệ trong khả năng chính trị rộng rãi của đối lập, vì tổ chức tuyệt diệu của họ ở Trung phần VN".

"Tất nhiên, Phật giáo Ấn Quang chưa bao giờ có đủ sức để lật đổ chính quyền Sài Gòn, nhưng có khả năng tạo ra bất ổn dân sự nghiêm trọng như đã làm năm 1966..."

CIA khẳng định "Phật giáo Ấn Quang chẳng ưa gì ông Thiệu (nguyên văn: have little love for Thieu) nhưng đi đến kết luận là ông dễ chấp nhận được hơn một người bất định như Tướng Kỳ hoặc vô hiệu quả như Tướng Minh, dù rằng các nhà sư địa phương và Phật tử từng ủng hộ bất thành ứng viên tổng thống của ông Minh".

Cho rằng chỗ dựa chính trị của ông Thiệu trong xã hội miền Nam chẳng có gì vững chãi, nên ông dựa vào các tướng tá, khả năng chiến đấu của họ, và dựa vào sự ủng hộ công khai của Hoa Kỳ, CIA kết luận, "sự tồn vong về chính trị của ông Thiệu gắn liền với viễn cảnh của Nam VN trên chiến trường".

Và chính đây là kết luận cho rằng sau khi mất Quảng Trị, nếu Huế thất thủ, thì ông Thiệu sẽ sụp đổ.

CIA tin rằng Huế không quan trọng về quân sự bằng Đà Nẵng, nhưng lại là biểu tượng lớn cho VNCH.

Chiếm lại Cổ thành Quảng Trị

Về quân sự, CIA nhận định chính xác rằng nếu đến mùa thu 1972, VNCH thành công trong các chiến dịch phía Bắc thì vị thế của ông Thiệu sẽ mạnh hơn nhiều, và không đối thủ nội bộ nào "đẩy ông đi được".

Trên thực tế, sau khi mất Quảng Trị trong đợt tấn công vượt sông Bến Hải mà Bắc VN gọi là "Chiến dịch Trị Thiên" từ tháng 3 đến tháng 5/1972, VNCH và tổng thống Thiệu đã có những quyết định táo bạo.

Việc thay Chuẩn tướng Vũ Văn Giai và Trung tướng Hoàng Xuân Lãm bằng Trung tướng Ngô Quang Trưởng để làm tư lệnh Quân đoàn I - Quân khu I từ tháng 5, đã góp phần làm đảo ngược thế cờ cho VNCH.

Cũng phải nói vào giai đoạn này, Hoa Kỳ vẫn còn quyết tâm bảo vệ miền Nam và Hạm đội 7 đã hỗ trợ tối đa về phi pháo và oanh kích bằng không quân, gồm cả B-52 cho Tướng Trưởng để ông có thể giành lại Cổ thành Quảng Trị ngày 16/09.

Hai bên đều thiệt hại rất nhiều sinh mạng nhưng VNCH còn tồn tại thêm được gần ba năm nữa.

Ngô Quang TrưởngBản quyền hình ảnhBETTMANN
Image captionTrung tướng Ngô Quang Trưởng thị sát quân lực bảo vệ Huế. Phía sau ông là thiếu tướng cố vấn Mỹ Frederick Kroesen. Chừng 900 quân thuộc Sư đoàn 2 của VNCH được không vận tới căn cứ Rakkasan, cách Huế 15 dặm về phía Tây để tạo 'vành đai thép' bảo vệ cố đô

Cũng trong thời gian diễn ra các trận đánh Mùa hè Đỏ lửa 1972, phía Mỹ nhận định rằng việc yểm trợ bằng không quân và phi pháo của họ là yếu tố tối quan trọng cho sức chiến đấu của quân lực VNCH.

Điều này đã không còn vào tháng 3/1975, như chính các báo cáo khác của CIA vào thời gian đó ghi lại.

'Cuộc chiến Anh-Mỹ' về cách đánh ở VN

Ngày 30 tháng Tư từ 'một góc nhìn khác'

30/04: Bên thắng cuộc và thua cuộc nghĩ gì?

Trong cuộc gặp cuối cùng với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 2/04/1975, quan chức CIA, Ted Shackley ghi lại rằng ông Thiệu "tóc bạc đi nhiều" (so với lần gặp cuối năm 1973), và trông ông "e dè, giảm nhiệt huyết".

Trước đó hơn một tuần, tối 25/03/1975, quân đội miền Bắc đã chiếm trọn Huế và tiếp tục tấn công để làm chủ toàn bộ Quân khu I.

Đúng như nhận định hồi 1972 của CIA, Huế thất thủ là sự nghiệp của ông Thiệu khó đứng vững.

Vào thời điểm hai bên nói chuyện, ông Shackley cho Tổng thống Thiệu hay quân đội Bắc Việt đã xuất hiện ở cấp sư đoàn tại 17 điểm trên toàn lãnh thổ VNCH.

Hoa Kỳ vẫn cố gắng thuyết phục ông Thiệu cải tổ chính phủ để tạo ra bộ mặt đoàn kết quốc gia, điều ông chưa hề thực sự muốn làm, và đã không làm.

Chính vì thiếu một chính phủ ít nhiều có tính dân chủ đại diện hơn, sự ủng hộ của dư luận Hoa Kỳ với ông Thiệu và VNCH ngày càng giảm, đến chỗ không còn gì.

Ngày 10/04, để cứu vãn tình thế phút chót, Tổng thống Gerald Ford xin Quốc hội 722 triệu USD viện trợ quân sự cho VNCH, cùng 220 triệu viện trợ kinh tế.

Cuộc thảo luận không đi đến đâu và chấm dứt ngày 17/04.

Sang ngày 21/04, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình tuyên bố từ chức.

Ngày 30/04/1975, lực lượng cộng sản tiến vào thủ đô của miền Nam.

HQ504Bản quyền hình ảnhSTAFF
Image captionTháng 3/1975: tàu hải quân HQ504 chở 7000 người từ Huế và Đà Nẵng chạy loạn vào Nam

Phi cơ VNCH có công giúp Hoa Kỳ thắng Iraq năm 1991

Phi công VNCH - VNAF

Vài ngày sau khi lực lượng cách mạng tiến vào Sài Gòn hôm 30/04/1975, Tổng thống Hoa Kỳ được thông báo về những quyết định mới nhất của chính quyền quân quản Sài Gòn - Gia Định.

Báo cáo 'chỉ dành riêng cho Tổng thống' (for President o­nly) của CIA ngày 5/05/1975 ghi một loạt sự kiện:

  • Ủy ban quân quản đã được thành lập, do Tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch;
  • Chính quyền ra các thông báo đầu tiên, gồm cả việc yêu cầu mọi quân nhân VNCH cũ "ra đăng ký, trình diện";
  • Tờ 'Sài Gòn Giải phóng' ra số đầu tiên.

Tổng thống Gerald Ford cũng nhận được thông tin rằng, "chuyến bay Việt Cộng - a Vietcong flight - đầu tiên đã đáp xuống Tân Sơn Nhất.

Nhưng tin quan trọng hơn khiến Hoa Kỳ không thể bỏ ra, là yêu cầu của chính quyền cộng sản Việt Nam "gửi công hàm sang Thái Lan, Philippines, Malaysia và Singapore" đòi lại các tàu thuyền, chiến hạm và rất nhiều máy bay của Không quân VNCH bỏ chạy sang các nước láng giềng.

Nếu mất Huế TT Thiệu 'đã sụp đổ' từ 1972

30/04: Những xui xẻo định mệnh của VNCH

VNCH: thuộc địa kiểu mới hay nước có chủ quyền?

Câu chuyện về cả trăm loạt phi cơ mang phiên hiệu Không lực VNCH - VNAF đã đáp xuống U Taphao, Thái Lan, để rồi sau trở về Mỹ.

Có cựu phi công VNCH sau đã tham chiến ở vùng Vịnh năm 1991 được ghi lại trong bài 'Escape to U Taphao' của Ralph Wetterhahn trên tạp chí Air & Space Magazine (01/1997).

Bài báo kể về hai nhân vật: Henry Lê của VNCH và Chuẩn tướng Không quân Hoa Kỳ Harry 'Heinie' Aderholt.

Bay sang U Taphao rồi đi tiếp

Ông Henry Lê đã lái chiếc A-37 bay thoát khỏi phi lộ bị pháo kích ở sân bay Tân Sơn Nhất ngày 29/04/1975 cùng hai đồng đội.

Đáp xuống U Taphao, ông trao lại chiếc phi cơ cho lực lượng Hoa Kỳ ở Thái Lan MACTHAI. Sau đó, ông sang Guam, rồi về Mỹ tiếp tục làm phi công.

Về sau, ông là trung tá trong Quân Trừ bị Hải quân Hoa Kỳ, bay các chuyến S-3 Viking săn ngầm ở Subic Bay và A-6 Intruder tại vùng Vịnh Ba Tư.

Nhưng Henry Lê chỉ là một trong hàng trăm phi công VNCH thoát khỏi Nam Việt Nam những ngày cuối của cuộc chiến.

VNAFBản quyền hình ảnhUSAF-YOUTUBE
Image captionVNAF

Sau Hiệp định Paris 1973, Hoa Kỳ rút quân nhưng bàn giao lại rất nhiều phi cơ cho VNCH, khiến nước này trở thành cường quốc không quân thứ tư thế giới.

Một thống kê nói đến năm 1973, Không lực VNCH có 2276 phi cơ, tăng lên từ 482 chiếc năm 1969.

Về trận Phước Long ở Tây Ninh năm 1975

‘Hiểu thêm’ về thế hệ người lính VNCH

Việt Nam Cộng Hòa trước và sau Tết Mậu Thân 1968

Trong các cuộc giao tranh năm 1975, hàng trăm phi cơ đã bị lực lượng cách mạng và Bắc Việt giành lấy, và một số chiếc sau được dùng trong cuộc chiến Campuchia.

Dù Hoa Kỳ cử Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Erich von Marbod và ông Richard Armitage, cựu quan chức tình báo hải quân thạo tiếng Việt sang Sài Gòn hôm 24/04 để tìm cách đem phi cơ, tàu chiến của VNCH ra khỏi Việt Nam, nhưng kế hoạch đó không được thực hiện đầy đủ, một phần vì Đại sứ Graham Martin phản đối.

Chưa kể nhiều sân bay đã bị pháo kích và các cơ đội VNCH không kịp chuyển hết phi cơ từ miền Trung và Biên Hòa về Cần Thơ, ra Phú Quốc.

Tuy nhiên, hàng trăm máy bay VNAF đã bay sang các nước Đông Nam Á cùng phi công của họ.

Và ở Thái Lan, có những người Mỹ như tướng Alderholt đã tìm mọi cách giữ phi cơ này lại chứ không nộp cho Hà Nội.

Là tư lệnh MACTHAI, ông Harry Aderholt tin rằng nếu tất cả số phi cơ này, nhiều chiếc mới toanh, rơi vào tay Bắc VN thì chẳng mấy chốc mà đồng minh Thái Lan bị đe dọa áp đảo về không lực.

Mặt khác, ông cho rằng phi cơ thuộc sở hữu của chính phủ Mỹ, chỉ cho VNCH mượn mà thôi, và vì vậy Mỹ không phải trả cho ai hết.

Sau tháng 4/1975, có cả thảy 165 phi cơ quân sự của VNCH tới U Taphao, gồm cả phản lực cơ F-5, máy bay vận tải C-130A Hercules, trực thăng UH-1 Bell...

Ngoài ra còn có 97 phi cơ của quân đội hoàng gia Campuchia chạy sang khi Phnom Penh bị Khmer Đỏ vào chiếm đầu tháng 1/1975.

30/04: Những xui xẻo định mệnh của VNCH

"Năm năm vàng son" của Việt Nam Cộng Hòa

Tổng thống Diệm: Độc tài hay nhân trị?

Sức ép ngoại giao từ Hà Nội lên Hoa Kỳ và các chính phủ trong vùng khiến Tướng Aderholt đã phải tự ý làm những việc "ngoài luồng" để cứu máy bay VNCH, và ông đã bị mất chức cho hành động này.

Chẳng hạn, Aderholt đã tự tổ chức vận chuyển máy bay ra tàu sân bay Mỹ, đem máy bay cũ, nhỏ hơn bay đi các phi trường nhỏ, hẻo lánh ở Thái Lan để cất, rồi sau đó thuê cả thuyền để chở chúng từ rừng ra đường xá và chuyển về Mỹ.

Chỉ trong một lần vận chuyển, hàng không mẫu hạm USS Midway đã đem 101 phi cơ của Không lực VNCH về Guam, để sau đó có 21 chiếc F-5E về tận căn cứ McClellan Air Force Base ở California.

Chưa kể, quân Mỹ còn phải tìm cách cứu máy bay và phi công VNCH đáp khẩn cấp xuống Thái Lan.

Một phi cơ A-37 còn nguyên bom dưới cánh đã đáp xuống xa lộ phía Bắc Bangkok và phi công người Việt đã lái nó chạy khỏi con lộ, tới sân một trường học thì lao vào và dừng lại.

Phía Mỹ đã cử người tới lái chiếc máy bay bay về căn cứ Korat.

Đa số máy bay cuối cùng được chuyển về Hoa Kỳ, tới các căn cứ ở Arizona, Nevada và có chiếc được đưa về California.

Cuối cùng thì không một chiếc máy bay nào của VNCH được Thái Lan và các nước trong vùng trao lại cho nước VN thống nhất.

Tiếp tục hoạt động

Trong vòng 12 năm tiếp theo, phi cơ F-5E từng mang phiên hiệu VNAF được dùng trong huấn luyện để giới thiệu cho phi công Mỹ các thế hệ sau cách chống máy bay Liên Xô.

Những phi công này đã thành công trong cuộc chiến đánh Iraq trên bầu trời Baghdad năm 1991.

Tỷ lệ 'sát thủ' của họ nhắm vào không quân Iraq do Liên Xô huấn luyện là 4:1.

Tháng Tư những mất và còn

Lệnh rút khỏi Huế của Tổng thống Thiệu

Lịch sử có nợ gì Tướng Dương Văn Minh?

Ralph Wetterhahn kết luận:

"Thành tích này, một phần không nhỏ thuộc về các nỗ lực của những phi công cuối cùng của Không lực VNCH. Nhiều máy bay họ đem ra khỏi Việt Nam vẫn tiếp tục bay trên khắp thế giới. Không lực của họ đã ngừng tồn tại ngày 30 tháng Tư năm 1975, có lịch sử đúng 20 năm, không một ngày ngưng tiếng súng."

MỹBản quyền hình ảnhBETTMANN
Image captionPhi cơ C-141 của Không lực Hoa Kỳ chuyển quân tới VN - hình tư liệu

Chuyến bay cuối cùng

Chuyện về máy bay của Việt Nam Cộng Hòa tưởng như chỉ dừng lại ở đó nhưng không phải.

Cuối năm 1979, một chiếc C‐130 Hercules từ Việt Nam xin đáp khẩn cấp xuống Singapore, chở trên khoang 13 người.

Trước sự kinh ngạc của chính quyền sở tại, một sỹ quan không quân Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng thân nhân yêu cầu Singapore cho họ liên lạc với Đại sứ quán Hoa Kỳ để xin đi Mỹ tỵ nạn.

Theo New York Times trong bản đăng tin hôm 26/11/1979, Hoa Kỳ trả chiếc máy bay này cho Việt Nam nhưng cho toàn bộ nhóm người đi Mỹ.

Có lẽ đây là chiếc máy bay VNCH cuối cùng từ Nam Việt Nam trốn sang Đông Nam Á, hơn bốn năm sau khi cuộc chiến kết thúc.

Báo Việt Nam cho biết trong vụ 'cướp máy bay C-130' này, người thực hiện là cơ trưởng Tiêu Khánh Nha.

Trước đó, vào tháng 3/1978, một phi cơ C-47 do thượng úy Đinh Công Giểng, người Bắc, và cựu trung tá phi công VNCH Lại Đắc Ngọc cùng điều khiển đã trốn sang Singapore.


URL của bản tin này::http://www.vietnamville.ca/article.7396

© Vietnamville contact: admin@vietnamville.ca