Phong trào Thơ mới Việt Nam
11.01.2009 20:29
Đầu thập niên 1930, văn hoá Việt Nam diễn ra một cuộc vận động đổi mới thơ ca mạnh mẽ với sự xuất hiện một làn sóng thơ mới với cá tính sáng tác độc đáo. Cuộc cách tân này đi vào lịch sử văn học với tên gọi Phong trào Thơ mới.
1. Lịch sửViệc chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào Việt Nam và sau Thế chiến thứ nhất, cùng với việc người Pháp đẩy mạnh phong trào khai phá thuộc địa đã vô tình đẩy nhanh làn gió của văn hóa phương Tây vào Việt Nam. Giới trí thức trẻ nhanh chóng tiếp thu văn hóa Pháp và nhận ra vần luật, niêm luật của Nho gia đã quá gò bó trong việc thể hiện tiếng thơ của con người. Năm 1917 trên báo Nam Phong (số 5), Phạm Quỳnh, nổi tiếng là người bảo thủ, cũng phải thú nhận sự gò bó của các luật thơ cũ: - "Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy."
Sau đó, Phan Khôi cũng viết nhiều bài báo chỉ trích những trói buộc của thơ văn cũ và đòi hỏi cởi trói cho sáng tác thơ ca. Trong khoảng 1924-1925, cuốn tiều thuyết của Hoàng Ngọc Phách kể về mối tình Đạm Thủy-Tố Tâm đã gây sóng gió trong giới học sinh và thanh niên thành thị, dù tình yêu ấy chưa vượt qua được rào cản của đại gia đình phong kiến. Tiếp theo đó, năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã phá vỡ vần điệu niêm luật, số câu, số chữ của "thơ cũ" khi dịch bài La cigale et la fourmi (Con ve và con kiến) của La Fontaine sang tiếng Việt. Năm 1929, Trịnh Đình Rư tiếp tục viết trên báo Phụ nữ tân văn (số 26): - "Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy."
Ngày 10 tháng 3 năm 1932, bài thơ Tình già của Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ mới. Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ mới. 2. Khuynh hướng chungKhuynh hướng chung của thời kỳ Thơ mới những năm 1930-1945 là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái "tôi" của tác giả, thẩm mỹ hóa cái cuộc sống rối ren, tơi bời của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lõng giữa vòng đời. Tính khuynh hướng của nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng, có khi lãng mạn, mộng mơ, ai ca, thần bí, anh hùng, triết học, cũng có khi lãng mạn anh hùng, lãng mạn công dân hay lãng mạn xã hội,... Nhưng nét bao trùm chủ nghĩa lãng mạn là mộng mơ. Các nhà thơ muốn thoát khỏi những điều kiện ngột ngạt của xã hội bảo hộ thời thơ mới bằng cách tưởng tượng, trốn vào trong cái thế giới vô cùng lý tưởng ấy. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, chỉ có cái gì khác thường, khác người, khác đời, và sự đối lập giữa mộng và thực là đáng kể. Trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa cái xã hội hủ lậu, ngột ngạt ấy thì sự đối lập là dễ hiểu. Trong văn học thời kỳ này, thơ cũng như văn xuôi, cá nhân tự khẳng định, tự biểu hiện ra niềm vui, mơ ước, khát vọng. Cảm hứng sáng tác gắn liền với ý thức cá nhân; thơ mới là thơ của cái "tôi", một cái "tôi" chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái "tôi" bấy giờ không làm việc "tải đạo" nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định Buồn, cô đơn là tâm trạng của một cá thể thi nhân nhưng lại là nét chung của các nhà thơ trong trường phái này. Đây không phải là một hiện tượng lạ mà do những nguyên nhân khách quan chung. Họ không biết phải làm gì, phải đi theo hướng nào giữa cái xã hội tan tác ấy. Họ cũng không chấp nhận được cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt như mọi người xung quanh. Do đó, họ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội. Trong thơ mới có nhiều rạo rực, âu lo, có nhiều khát vọng một cách vội vã, căng thẳng, chính cái mới này đã quyết định sự ra đời của thơ mới. 3. Những tác phẩm đầu tiênNhững tác phẩm ra đời đầu tiên được chính nhóm Tự lực văn đoàn chê là "đọc lên nó lủng củng, trục trặc, lại có vẻ ngơ ngẩn" và giáo sư Hoàng Như Mai cho rằng "bây giờ không ai kể nó ra nữa, không phải vì bội bạc mà vì nó dở" - Một đoạn trong bài "Tình già" của Phan Khôi viết:
- ...Ôi đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng.
- Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau...
- Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi thủi.
- Lẳng lặng với sương đeo im lìm cùng gió thổi
- Không tiếng không tăm không thưa không hỏi...
- Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
- (Một cô ở chợ, một cô ở đồng)
- Hai cô thiếu nữ đi ra đồng
- Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen
- Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
- (Cô đi chân không, cô đi dép đầm)
- Hai cô rủ nhau đi xuống đầm
- Bóng lụa hồng tách bóng vải thâm...
4. Tác giả, tác phẩm tiêu biểu- Thơ
- Phê bình
NƠI MÀ THƠ TIẾNG ANH ĐƠM HOA » Tác giả: Nguyễn Hoàng Đức
1. NƠI MÀ THƠ TIẾNG ANH ĐƠM HOA
Với đông đảo bạn yêu thi ca ở Việt Nam, thì hầu như thơ Pháp, thơ Nga được biết nhiều hơn là thơ tiếng Anh. Bạn đọc đến với tâm hồn Nga qua những dòng thơ của Puskin, Lermontov, của Mayakovski, và đến với thành phố mặt trời của văn hoá nhân loại với Racine, Corneille, Lamartine, Paul Eluard, và Apolinaire...
Để hiểu thơ tiếng Anh hơn, chúng ta hãy tạm dời những khoảng rừng thu vàng bát ngát của Levitan nằm ở phía Đông, hành hương đến phía Tây, vượt qua kinh thành Ba-lê tráng lệ, lần theo bước chân của Crom Well băng biển Măng-sơ đến cố hương của Rô-bin-hút. Chặng đầu tiên chúng ta hãy dừng ở Đức, quê hương của Goethe với trường thi bất tử Faust và của Heine với những vần thơ tình lãng mạn. Thơ Đức và thơ Anh cùng chung đoạn trường bán kính đồng qui nhất định bởi cùng hệ ngôn ngữ Ăng-lô Xắc-xông; nhưng cái mà hai nền thi ca chia sẻ với nhau nhiều hơn, theo nhiều học giả, là cùng cảnh ngộ “ngôi sao”- ở Đức với ngôi sao Goethe, và ở Anh với ngôi sao vĩ đại Shakespear. Đây là niềm tự hào dân tộc rất lớn, nhưng chính niềm tự hào đó cũng gây mặc cảm tự ti ít nhiều cho những thế hệ thi ca đương thời. Tham chiếu những ảnh hưởng của triết học, những hậu bối của Goethe, cũng như Shakespear gọi đây là hiện tượng “một lần cho tất cả” ( once for all ). Nhưng mà hiển nhiên họ cũng từng xác quyết rằng: một lần không phải là tất cả, và cũng vậy, một người không phải là tất cả, nếu thế thì một thi sĩ không thể làm nổi một dòng thơ cũng như một nền thơ.
Chính hiện tượng mặc cảm này cũng ám thị nền văn học Anh rất nhiều, không ít người cho rằng, chỉ cách biển Măng-sơ chưa đầy 20 dặm, so với nền văn học Pháp nghễu nghện bóng dáng mỹ miều lồng lộng, thì nền văn học Anh còn sơ khai, hoang rợ, và thô ráp quá. Ngay cả đỉnh thái sơn thi ca Anh Shakespear trong thế kỷ XVIII đã bị Racine, Corneille cũng như giới học thuật Pháp bới móc là thơ thô lậu, hoang rợ, và ngổ ngáo.
Vậy chúng ta phải hiểu nền văn học Anh thế nào? Hiểu xuất phát từ nhận thức, nhận thức lại thường khởi từ quan niệm. Cái gì phải cứng thì càng cứng càng tốt, cái gì phải mềm thì càng mềm càng hay. Chúng ta không thể lấy vẻ óng ả còn mang nặng cuống nhau Latin của nền thi ca Pháp để soi chiếu sức sống tự nhiên của nền văn học Anh. Người Anh không phô vẻ mỹ miều chữ nghĩa để mãi mãi phải theo đuôi người hàng xóm Nooc-măng của mình, và tự thân những con người của hòn đảo cô độc đã vươn hết mình trong sức sống hồn nhiên. Và đỉnh thái sơn Shakespear đã không phô diễn tài hoa của ông trong sự uyển chuyển của điệu múa “kinh viện” mà ông nhảy nhót hót ca như một CẬU BÉ tự do. Thơ ông được mệnh danh là đơn giản đến phi phàm. Chúng ta thử lắng nghe cái hơi thở rất đời của ông:
Mùa thu đến liệu anh có về với em Khi lá vàng lần hồi trút xuống chẳng còn một chiếc Và những cành cây run rẩy chống chọi cùng giá lạnh Sự hoang tàn hoà tấu một khúc ca tê tái Như những con chim cất tiếng hót ngọt ngào thảng thốt
Đó là Shakespear với quê hương của thơ tiếng Anh. Nhưng dẫu vậy Shakespear cũng không giúp nổi người Anh vượt qua mặc cảm “một người cho tất cả”. Trong không khí chung, mảnh đất nghệ thuật châu Âu được mệnh danh là “những luống cày sáng tạo đã cày đi sới lại đến mức chẳng có một luống cày nào được coi là mới nữa.” Thế là thi ca tiếng Anh đã di cư khỏi mảnh đất trồng sới “nhầu nhĩ” đó. Nó nhập cư vào châu Mỹ, một mảnh đất trinh nguyên, trinh nguyên đến mức luống cày nào cũng là luống đầu tiên. Nước Mỹ đã đơm hoa sáng tạo cho thi ca Anh, cũng như Châu Mỹ La tinh kết trái sáng tạo cho ngôn ngữ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
Nhưng chúng ta đọc thơ Mỹ thế nào? Mới đây một anh bạn khi nghe xong một bài thơ của tác giả Fred Marchant đã thốt lên “lủng củng vậy cũng là thơ à?” Tôi có bảo anh “đọc thơ Mỹ thì hãy chú trọng nhạc điệu hơn vần điệu, thậm chí nên thưởng thức cả tính phi nhịp điệu và phi vần điệu của nó. Hơn nữa hãy để ý đến ngôn từ ấm cúng mang tính cách tiệm cận cuộc đời của nó.”
Chúng ta hãy lần ngược lại lịch sử thi ca Mỹ đến với Walt Whitman, một thi sĩ bị ruồng bỏ vĩ đại. Đương thời, thơ ông bị coi như rác rưởi và phi luân, mọi người hắt hủi ông đến mức sợ ông bước qua cửa nhà mình sẽ đem theo những vần thơ làm dơ bẩn thảm trải sàn. Con người có thể lầm lạc, còn lịch sử thì không, thời gian đã sát hạch để tấn phong Whitman lên ngai vàng cao nhất của thi ca Mỹ. Cuộc tranh luận của Whitman đã giằng co suốt thế kỷ, kẻ bảo “thơ ông không phải thơ”, người bảo “thơ ông là những vần thơ vĩ đại”. Ngẫm lại cuộc tranh cãi đó , chúng ta thấy nó vô cùng cố chấp, điên dở và thậm chí ngu ngốc. Tại sao? Kẻ bảo “ông không có thơ” là kẻ chỉ biết nhìn vào mặt bằng tu từ. Người bảo “thơ ông vĩ đại”, là người chỉ để ý đến tư tưởng của ông. Thật gàn dở! Ngôn ngữ bao giờ cũng mang hai chức năng: Biểu tượng và Ý nghĩa. Chính vì vậy đã xuất hiện hai luồng lạch lớn: Bút pháp hình thức và Bút pháp tư tưởng trong thi ca. Cái nào đúng? Không cần đúng và sai! Cái nào thống soái? Chỉ biết rằng tư tưởng bao giờ cũng ngự trên cao nhất để thực thi sứ mệnh “cao đăng viễn chiếu” (đèn cao chiếu xa).
Vậy đọc thơ Mỹ, trước hết hãy đọc tư tưởng! Hãy lần theo một bút pháp mang tư tưởng! Trước hết chúng ta hãy cùng ngâm với Whitman bằng cái giọng:
Tôi và anh không một xu dính túi Vẫn có thể mua được tinh hoa trái đất này
(Lá cỏ, t1, 71)
Và một âm điệu khác hết sức suy lý:
Linh hồn bao giờ cũng đẹp Vũ trụ là trật tự, vạn vật ở chốn của mình (Những kẻ yên giấc)
Thực tế vẫn thường xảy ra, bút pháp hình thức cam chịu nhường bước để bút pháp tư tưởng lấn lướt. Chính vì vậy mà nhà thơ Xuân Diệu của chúng ta đã chê bai bút pháp tu từ véo von như:
Nghề xếp chữ ôi nghề con trẻ Dăm câu vui đắp đổi mấy câu sầu Muốn có bút pháp tư tưởng, ý thức phải bay vút lên chiếm lĩnh đỉnh thi sơn để toả chiếu một nhãn năng xa hút và bao quát. Và tư tưởng bao giờ cũng đĩnh đạc rõ nét, nó luôn trăn trở suy lý. Chúng ta lấy bài “Ngôi sao” của nhà thơ giật giải Nobel, Derek Walcott làm thí dụ:
Nếu trong ánh sáng vật thể ngươi nhận ra mờ ảo, còn nhợt nhoà Trong tâm tưởng chúng ta ước định khoảng cách, giống như chị Hằng di chuyển trong đêm từ chiếc lá này đến chiếc lá khác , thì có lẽ ngươi sẽ không nhận ra ngôi nhà nhỏ nhắn của ta ồ, ngôi sao ngươi đáng thương đến hai lần sớm sủa hoàng hôn, và biến đi quá trễ buổi bình minh, liệu ngọn lửa xanh xao mà ngươi đang thắp có thể soi tận đáy tâm hồn lầm lỗi nơi chúng ta xuyên qua hỗn mang với ngọn lửa bùng cháy như ánh dương quang
Đó là đặc trưng của thơ suy lý – suy lý đến tột cùng. Bài thơ không giống cái tâm cảm thán tụng vẻ đẹp mờ ảo đêm tối thường hằng của thiên nhiên, mà nó vận động đến khát vọng tột cùng và chân lý soi sáng.
Muốn hiểu một sự vật phải rơi cùng nó và chìm trong nó, đó là quan niệm của Đức Khổng Tử. Muốn hiểu thơ tiếng Anh, chúng ta hãy cùng ngụp lặn trong thực tại thô ráp của nó. Nhưng trước khi thả rơi vào một bài thơ, chúng ta hãy tham chiếu nhãn quan của các học giả Mỹ về dòng ngược chiều với nó: “Rất nhiều người nói tiếng Anh lại coi việc đọc Corneille và Racine như đi ngang qua hàng cột đá bằng cẩm thạch. Chúng ta biết chúng vĩ đại nhưng trơn tru và lạnh lẽo quá...” (Bách khoa toàn thư Compton’ s). Đến đây chúng ta hãy trở lại hít thở những vần thơ ấm áp nhưng đầy nhãn năng lồng lộng của Derek Walcott - người có tuyển tập thơ được tái bản hơn hai mươi lần, bài: BÀI CA CỦA AĐAM
Người đầu tiên là Êva, kẻ đánh thức Chúa Trời cho con rắn Và đổ lỗi cho Ađam thế là mọi người mắc tội hay Êva thơ dại chẳng có gì biến đổi Đàn ông vẫn hát bài ca mà Ađam hát Ta thán thế giới mất đi bởi những kẻ hiềm gian Bài ca của Êva, phản bác lời kết tội Mà Ađam hát vào mỗi buổi chiều tàn của địa cầu Với những tia sáng vút qua đôi mắt Những con beo trong vương quốc thích hoà bình Và cái chết của chàng vụt bay khỏi những vòm cây Chàng ca lời sợ hãi về sự ích kỷ của Chúa Trời và giá đau đớn của cái chết riêng chàng phải chịu Bài hát bay lên chốn Đức Chúa Trời, Ngài dụi mắt “Ôi trái tim ta, con ở trong tim ta như con chim thức dậy Ôi tim ta, con ở trong tim ta khi mặt trời vẫn ngủ Ôi tim ta, con vẫn ở trong ta u hoài như sương móc Con khóc trong ta, giọt giọt như mưa sầu rơi lệ.”
Tranh cãi về thơ, không phải để biện ngôn cho thoả chí mà là để sống, để tâm sự với Nàng Thơ. Hy vọng rằng , thoáng nhãn năng của tôi đang mở cánh cửa hướng về tâm hồn bạn, bởi lẽ “một người không làm nên tất cả”.
N.H.Đ |
|
|