Điều đáng để suy nghĩ là phần lớn những người này đều trưởng thành trong môi trường nghiên cứu ở Mỹ hoặc một nước phát triển nào đó. Đa số họ có thời gian sinh sống và làm việc ở nước ngoài nhiều hơn ở trong nước.
Như vậy, về danh nghĩa, dù giải thưởng được tính cho quốc gia nào thì thực chất, nó cũng khó có thể được coi là thành tựu nghiên cứu khoa học ở các nước đang phát triển.
Thành công chủ yếu của các nước đang phát triển ở giải Nobel thuộc về 2 lĩnh vực là Văn chương (7 giải) và Hòa bình (15 giải).
Lý do hiển nhiên có thể giải thích cho những thành tích nghèo nàn của các nước đang phát triển trong khoa học nói chung và ở giải Nobel nói riêng là thiếu kinh phí tài trợ cho hoạt động nghiên cứu. Nhưng bên cạnh đó, cơ chế quản lý cũng là một trở ngại trên con đường đi đến những đỉnh cao trong khoa học.
Giáo sư Ahmed Zewail, nhà khoa học Mỹ gốc Ai Cập giành giải Nobel Hóa học năm 1999 cho rằng việc đầu tiên cần thực hiện là thay đổi cơ bản cách giảng dạy khoa học ở đa số các nước đang phát triển. Việc "nhồi nhét" quá nhiều kiến thức trong sách vở mà không gợi mở cách tư duy cho học sinh sẽ khiến cho khả năng của các em bị thui chột.
Cũng theo Zewail, các nước đang phát triển cũng cần cải thiện các hình thức khuyến khích nghiên cứu khoa học. Cách đãi ngộ chủ yếu dựa vào thâm niên và chức vụ thay vì dựa vào tài năng thực sự mà phần lớn các nước đang phát triển áp dụng hiện nay sẽ không tạo ra được những người hết mình vì khoa học.
Từ kinh nghiệm bản thân, một người đã từng làm việc nhiều năm ở Ai Cập (nước đang phát triển) và Mỹ, Giáo sư Zewail còn cảnh báo về tác động tiêu cực của bệnh quan liêu, giấy tờ đến hiệu quả của công tác nghiên cứu.
“Chỉ cần một quyết định ra nước ngoài dự hội thảo mà còn phải xin hàng đống chữ ký thì đừng có mơ đến giải Nobel”. v.v.
>> Việt Nam - Giấc mơ Nobel
Nhiều chuyên gia y tế thế giới hết sức ngạc nhiên vì một nước chưa phát triển ở trình độ cao như Việt Nam lại có một "nền vaccine" phát triển rực rỡ, sản xuất được nhiều loại vaccine khó đến vậy.
Thậm chí có chuyên gia cho rằng: Y học Việt Nam, nếu có lĩnh vực nào có nhiều triển vọng nhất trong việc giành giải Nobel, thì đó chính là vaccine.
Vaccine bại liệt - Cú đột phá khẩu
Ngay trong thời kì Pháp thuộc, Việt Nam đã sản xuất được vaccine đậu mùa, TAB (vaccine tả, thương hàn) và sau đó là vaccine bạch hầu, ho gà.
Khi kháng chiến bùng nổ (khoảng những năm 1950), dù phải sơ tán lên chiến khu, thiết bị rất thô sơ, nhưng các chuyên gia vẫn sản xuất được vaccine đậu mùa, uốn ván...
Nhưng bước ngoặt lớn trong lĩnh vực nghiên cứu và sản xuất vaccine, lại xuất hiện từ năm 1960. Khi ấy miền Bắc bùng phát dịch bại liệt, khiến rất nhiều trẻ em tử vong hoặc bị di chứng khủng khiếp. Theo các ghi nhận y tế khi đó, bệnh nhân bại liệt nằm la liệt ở nhiều bệnh viện lớn, nằm tràn ra cả hành lang viện.
Lúc đó, Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch chủ trương bằng mọi giá trong nước phải sản xuất được vaccine phòng bại liệt. Giáo sư Hoàng Thuỷ Nguyên được cấp tốc cử sang Liên Xô cũ tiếp thu công nghệ sản xuất vaccine phòng bại liệt.
Thông thường, việc tiếp thu công nghệ sản xuất vaccine, thực tiễn thế giới cho thấy, nhanh cũng mất 2-3 năm, trung bình phải 5-6 năm, thậm chí có loại vài chục năm chưa xong. Sau khi tiếp thu công nghệ, trước hết phải nghiên cứu về dịch tễ học xem chủng virus ở Việt Nam là gì, bởi chủng virus ở mỗi nước thường khác nhau. Chỉ riêng công đoạn này, có khi cũng mất 2-3 năm. Sau khi tìm được chủng virus ở Việt Nam rồi thì lại nghiên cứu tiếp đến chủng vaccine cho phù hợp.
Lý thuyết phức tạp như vậy, nhưng chỉ 2 năm sau - năm 1962, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên cùng cộng sự trong nước đã sản xuất được vaccine phòng bại liệt và công trình này được thế giới đánh giá rất cao. Ngay cường quốc như Mỹ, cũng chỉ sản xuất vaccine phòng bại liệt bằng đường tiêm, còn Việt Nam lại sản xuất được vaccine phòng bại liệt bằng đường uống, cực kỳ thuận lợi cho trẻ em.
Nhờ 40 năm kiên trì dùng vaccine này mà năm 2000 Việt Nam đã thanh toán được bại liệt trong khi trên thế giới vẫn còn rất nhiều quốc gia chưa thanh toán được bệnh này: vùng Trung cận đông, Ấn Độ, Campuchia...
Sự thành công vượt mong đợi của vaccine bại liệt mở đầu cho một kỉ nguyên mới để Việt Nam bắt đầu sản xuất một loạt các thế hệ vaccine khác rất tiên tiến sau này như: viêm não Nhật Bản, viêm gan B, tiêu chảy...
Những con "át chủ bài" của vaccine Việt Nam
Theo GS Hoàng Thủy Long (nguyên Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ), ngoài vaccine bại liệt thì vaccine tả là một trong những vaccine ưu việt của Việt Nam (do GS.TSKH Đặng Đức Trạch chủ trì nghiên cứu thành công từ cuối những năm 1980 của thế kỷ trước).
Được cử đi Thụy Điển (nước đã sản xuất được vaccine này - vaccine tiêm), tiếp thu công nghệ nhưng GS Trạch luôn trăn trở với câu hỏi: làm thế nào để Việt Nam có thể sản xuất được vaccine vừa rẻ vừa có công hiệu lớn lại không cần tiêm? Cuối cùng, sau những tháng ngày miệt mài nghiên cứu, vắc xin tả uống "made in Việt Nam" ra đời, được quốc tế ca ngợi.
Vaccine viêm não Nhật Bản do Việt Nam sản xuất (công nghệ tái tổ hợp AND) cũng là một con “át chủ bài” của vaccine Việt Nam vì nó hoàn toàn đáp ứng tiêu chuẩn ngặt nghèo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nhưng giá chỉ rẻ bằng 1/4- 1/5 so với Mỹ và một số nước khác.
Một "ông lớn" nữa trong đội ngũ vaccine Việt Nam là vaccine phòng viêm gan B. Trong khi 80% dân số Việt Nam có dấu ấn của virus viêm gan B, nguy cơ ung thư gan rất lớn, thì việc tự sản xuất được vaccine này và đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, có ý nghĩa cực kỳ to lớn.
Trong 6 loại vaccine áp dụng trong chương trình tiêm chủng mở rộng là bại liệt, ho gà, bạch hầu, uốn ván, lao, sởi thì Việt Nam đã sản xuất được 5 loại, trừ sởi. Sau này, nhờ tự sản xuất được, nên chúng ta đưa thêm vào tiêm chủng mở rộng các vaccine tả, viêm não Nhật Bản, viêm gan B.
Vaccine Việt Nam: Có loại giá rẻ hơn 20 lần nhập ngoại
Một trong những thế mạnh lớn của Việt Nam là giá thành vaccine rẻ hơn rất nhiều vaccine nhập ngoại: Từ 3-4 lần, thậm chí tới 20 lần.
Nhờ vậy nên chính sách tiêm chủng mở rộng của Việt Nam có điều kiện để thể hiện sự ưu việt: tiêm chủng hoàn toàn miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi (nhiều nước khác không có chế độ miễn phí này).
Từ khi áp dụng, vaccine đã đóng vai trò chủ đạo trong việc giảm các bệnh dịch của Việt Nam xuống 40 -50 lần, góp phần cực lớn trong việc duy trì nòi giống khỏe mạnh và giảm tải đáng kể gánh nặng y tế, phúc lợi cho đất nước. Và Việt Nam cũng trở thành quốc gia hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á về sản xuất vaccine.
Nếu thành công, tại sao lại không mơ Nobel ?
Vài năm trở lại đây, cơn bão dịch cúm gia cầm đã làm cho thế giới chao đảo. Một số nước tiên tiến đã nghiên cứu để sản xuất vaccine phòng căn bệnh quái ác này.
|
Nếu Việt Nam sản xuất thành công vaccine cúm gia cầm (H5N1) thì sẽ nhận được đánh giá rất cao của thế giới. |
Và cho đến nay, người ta mới chỉ tìm ra 2 loại nguyên liệu sản xuất: từ phôi lòng đỏ trứng gà siêu sạch và từ tế bào đã được "thuần dưỡng". Trứng gà siêu sạch đòi hỏi không có bất cứ một viêm nhiễm, vi khuẩn, virus nào. Giá một quả trứng như vậy rất đắt, lên tới 1 USD/quả, thậm chí 2-3 USD/quả. Mà một quả trứng như vậy chỉ sản xuất được 2 liều vaccine.
Việt Nam muốn sản xuất vaccine thì buộc phải nhập khẩu mỗi năm nhiều triệu quả trứng gà siêu sạch. Đó là số tiền khổng lồ mà kinh tế chúng ta không kham nổi.
Nguồn nguyên liệu thứ hai là dùng tế bào đã được nuôi và thuần dưỡng. Tế bào này cũng phải mua từ nước ngoài, giá cả cũng không hề rẻ.
Vậy làm sao để một đất nước có đàn gia cầm đông đảo lại ở vùng có nguy cơ dịch cao như Việt Nam, có đủ vaccine phòng dịch cúm gia cầm?
Trước thực trạng nan giải ấy, các chuyên gia vaccine Việt Nam (do GS Hoàng Thủy Nguyên cầm trịch) đã bắt tay vào nghiên cứu vaccine cúm gia cầm theo con đường hoàn toàn mới: dùng tế bào thận khỉ tiên phát (khỉ vàng, được Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ nuôi rất nhiều ở đảo Rều - Hải Phòng) để chế vaccine.
Ưu điểm cực lớn của phương pháp này là giá thành rẻ gấp nhiều lần 2 phương pháp nêu trên (một quả thận của khỉ có thể sản xuất vô số liều vaccine) mà Việt Nam lại hoàn toàn chủ động được đầu vào. Hiện vaccine này đã thử nghiệm thành công trên động vật, giờ chỉ còn chờ cơ chế để thử nghiệm trên người là đưa vào sản xuất (rất nhiều chuyên gia của Viện Vệ sinh dịch tễ TƯ cũng đã sẵn sàng tình nguyện làm người thử nghiệm vaccine này).
Khi chúng tôi đặt câu hỏi: "Ông nghĩ sao về một giải Nobel cho vaccine Việt Nam?", GS Hoàng Thủy Long - người có nhiều “duyên nợ” với vaccine Việt Nam - hứng khởi: "Nếu chúng ta đi đúng hướng thì tại sao lại không nghĩ đến giải Nobel y học nhỉ? Tôi cho rằng nếu việc sử dụng thành công tế bào thận khỉ tiên phát để sản xuất vaccine cúm gia cầm (H5N1) thì sẽ nhận được đánh giá rất cao của thế giới. Thành công đó rất tuyệt vời, xứng đáng ứng cử giải Nobel y học".
"Tại sao chúng ta cứ phải khiêm tốn, không dám nuôi khát vọng đúng đắn ấy? Vaccine sản xuất theo hướng này thành công, có thể làm lợi cho thế giới nhiều tỉ đôla và có thể mở ra một số quan điểm mới cho nghiên cứu, sản xuất nhiều loại vaccine khác"...
Vấn đề bây giờ là chúng ta càng cho thử nghiệm trên người sớm bao nhiêu, hiệu quả càng lớn bấy nhiêu" - GS Long kết lại.
Chú thích ảnh
pNhiều nước phát triển đang nỗ lực nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng H5N1.
pDịch cúm gà gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế và sức khỏe, tính mạng của người dân.
Tiêu hủy gia cầm trong vùng dịch.
Các giải Nobel Y - Sinh học
Từ năm 1901 đến nay, giải Nobel Y học, hay chính xác hơn là Nobel Y - Sinh học đã được trao cho 189 người. Thống kê theo số lượng các nhà khoa học đã từng đoạt giải cho thấy Nobel Y - Sinh học có khuynh hướng trao cho các lĩnh vực sau đây:
Sinh học phân tử và di truyền học – 34 người đoạt giải.
Tâm thần học – 24 người đoạt giải.
Miễn dịch học – 21 người đoạt giải.
Nội tiết học – 20 người đoạt giải.
Còn lại, các lĩnh vực như: Dịch tễ học, Nghiên cứu kích thích tố, Hóa học trị liệu và Dược học, Ung thư, Tế bào sinh học, Vitamin... có từ 12 đến ít nhất là 2 người đoạt giải.
Riêng trong lĩnh vực Hóa học trị liệu và Dược học, đã từng có những giải thưởng được trao cho các khám phá quan trọng dẫn đến sự ra đời của các loại dược phẩm làm thay đổi nhân loại như penicillin (1945), streptomycin (1952).
Trong thời kỳ đầu, các công trình đoạt giải thường là các nghiên cứu lâm sàng. Năm 1901, giải được trao cho nghiên cứu về bệnh bạch hầu; năm 1902 là bệnh sốt rét; 1903 là bệnh lao da...
Thời gian gần đây, sự tiến bộ trong phương pháp nghiên cứu đã cho phép các nhà khoa học đi sâu vào những lĩnh vực cơ bản nhất của sự sống như di truyền học, sinh học phân tử. Điều này được phản ánh rõ nét trong cơ cấu giải Nobel Y - Sinh học từ những năm 1960 đến nay, với tỉ lệ lớn các công trình đoạt giải thuộc 2 lĩnh vực kể trên. H.Hải - Hà Thiều
Thế giới | Thứ hai, 28/1/2008, 11:59(GMT+7) | |
|
Dân tộc và đất nước nào "thống trị" giải Nobel ?
Và nước Mỹ, quốc gia có lịch sử vô cùng ngắn ngủi lại giành được số giải Nobel nhiều hơn tất cả các nước có nền văn minh phát triển hàng nghìn năm.
Người Do Thái thông minh hơn đa phần nhân loại ?
Phải chăng người Do Thái thông minh hơn phần còn lại của nhân loại? Và nước Mỹ là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, xứng đáng là cái nôi của các thiên tài? Hay còn những bí mật nào khác về con đường dẫn đến giải Nobel mà chúng ta chưa được biết?
Nhiều giả thuyết về nguồn gốc trí tuệ của người Do Thái. Có giả thuyết cho rằng người Do Thái sớm đề cao thuyết ưu sinh. Kinh Talmud của họ có đoạn viết: “Một người nên bán tất cả gia sản để cưới được con gái một học giả, hoặc để cưới được một học giả cho con gái mình”.
Nhờ quan điểm coi trọng việc lựa chọn bạn đời là những người thông minh, có học thức mà các thế hệ sau người Do Thái được hưởng nguồn gien tốt và xuất hiện ngày càng nhiều thiên tài.
Lịch sử 106 năm của giải Nobel chứng kiến một hiện tượng lạ lùng: trong số 779 người đã từng đoạt giải Nobel, có ít nhất 176 người Do Thái.
Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong nghiên cứu khoa học. Họ đã cống hiến cho nhân loại một trong những bộ óc vĩ đại nhất của lĩnh vực vật lý lý thuyết, Albert Einstein, cha đẻ thuyết tương đối, chủ nhân giải Nobel Vật lý 1921.
Người Do Thái nổi tiếng bởi tài năng trong kinh doanh và chính trị. Họ đã sản sinh ra rất nhiều nhà tư tưởng kiệt xuất, trong đó có Milton Friedman (Nobel Kinh tế 1976), “nhà kinh tế học có ảnh hưởng lớn nhất nửa cuối thế kỷ XX” theo đánh giá của tạp chí The Economist.
Người Do Thái còn là một dân tộc sở hữu những tâm hồn nghệ sĩ bay bổng như Boris Pasternak (Nobel Văn học 1958), tác giả cuốn tiểu thuyết "Bác sĩ Zhivago".
Làm thế nào mà một dân tộc đã từng bị xua đuổi và tàn sát đến mức hiện chỉ còn vẻn vẹn 13 triệu người sống rải rác trên khắp thế giới lại có thể đạt được những kỳ tích lớn lao như vậy?
Đối với một số nhà nghiên cứu, câu trả lời thật đơn giản: Người Do Thái thông minh hơn đa phần nhân loại.
|
Huân chương Nobel, phần thưởng danh giá mà mọi nhà khoa học đều mơ ước. |
Trí tuệ người Do Thái
Theo kết quả một số khảo sát mới đây tại Mỹ, Anh và Đông Âu thì chỉ số IQ trung bình của người Do Thái dao động trong khoảng từ 107 đến 115, trong khi mức trung bình chung của nhân loại là 100. Dựa trên kết quả này và lấy độ lệch chuẩn là 15, người ta tính được rằng tỉ lệ người Do Thái có IQ trên 140 (mức của các thiên tài) cao hơn gấp 6 lần so với các dân tộc khác.
Quan điểm về trí tuệ vượt trội của người Do Thái đã nhiều lần bị phản đối và một số nhà khoa học đã tìm cách chứng minh rằng về mặt di truyền, không tồn tại cái gọi là nguồn gien thông minh thượng đẳng. Dù vậy, chỉ số IQ cao hơn mức bình thường của người Do Thái, cũng như những thành tựu xuất sắc của dân tộc này trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự góp mặt đầy ấn tượng của họ ở giải Nobel lại là điều rất khó giải thích, nếu không tin rằng họ thực sự có một khả năng tư duy khác thường.
Có giả thuyết lại lý giải sự thông minh vượt bậc của người Do Thái - đó là kết quả của một quá trình chọn lọc tự nhiên. Trong lịch sử, người Do Thái đã từng bị phân biệt đối xử, bị xua đuổi và tàn sát. Chỉ những người thông minh, tháo vát mới có thể sống sót sau những biến cố ấy và làm nên một dân tộc Do Thái như ngày nay.
Giả thuyết này gần với giả thuyết của các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Utah (Mỹ). Theo đó, vào thời Trung cổ, vì không có đất đai nên đa số người Do Thái phải mưu sinh bằng việc buôn bán. Công việc này đòi hỏi phải suy nghĩ, tính toán nhiều hơn làm nông nghiệp và những người thành công nhất thường là những người thông minh nhất. Khi trở nên giàu có, họ thường có xu hướng sinh đẻ nhiều hơn những người làm ăn thua lỗ và do đó, nguồn gien của những người thông minh dần dần chiếm tỉ lệ lớn trong cộng đồng Do Thái.
|
Technion - Học viện Công nghệ Israel, cơ sở nghiên cứu, giảng dạy hàng đầu Israel, nơi làm việc của hai nhà khoa học đoạt giải Nobel Hóa học 2004, Avram Hershko và Aaron Ciechanover. |
Nghịch lý Israel
Nếu như người Do Thái là một dân tộc thông minh thì theo logic mà nói, lẽ ra Israel phải là một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về số người đoạt giải Nobel. Nhưng trong số 176 người Do Thái đã nhận được giải thưởng này, chỉ có vẻn vẹn 8 người là công dân Israel.
Người Israel chưa từng được trao giải Nobel nào trong Y học và Vật lý, cho dù đây là 2 lĩnh vực thế mạnh của các nhà khoa học Do Thái. Đây là đất nước của gần một nửa số dân Do Thái trên toàn thế giới.
Bên cạnh những lý do chính trị như thái độ thiếu thiện cảm của một số học giả phương Tây đối với nhà nước Do Thái, thì trở ngại lớn nhất mà các nhà khoa học Israel gặp phải trên con đường đến giải Nobel là họ thiếu một hạ tầng cần thiết cho việc nghiên cứu.
Đa số những người đoạt giải Nobel đều xuất thân từ những trường đại học, viện nghiên cứu danh tiếng, nơi có tất cả những điều kiện cần thiết để tài năng của họ phát triển. Israel hiện chưa có những cơ sở tầm cỡ như vậy. Các nhà khoa học của họ muốn đạt đến đỉnh cao đều phải ra nước ngoài học tập và làm việc.
Daniel Kahneman (Nobel Kinh tế 2002) là một trường hợp tiêu biểu. Ông làm luận án tiến sĩ tại Mỹ, quay về Israel giảng dạy một thời gian rồi lại sang Mỹ đầu quân cho 2 đại học danh tiếng là Berkeley và Princeton. Mặc dù vẫn giữ quốc tịch Israel, nhưng ông sinh sống chủ yếu ở Mỹ và mặc dù được trao giải Nobel với tư cách là công dân của Israel, song thành tựu nghiên cứu của Kahneman lại không thể tách rời môi trường làm việc cũng như những khoản tài trợ của nước Mỹ.
Mỹ - Vùng đất của các thiên tài
Hoàn toàn không cường điệu khi nói như vậy về nước Mỹ. Từ năm 1943 đến nay, ngoại trừ 2 lần vào các năm 1957 và 1991, chưa bao giờ người Mỹ vắng mặt ở lễ trao giải Nobel. Chuyện các nhà nghiên cứu Mỹ lập hat-trick, giành cả 3 giải Nobel khoa học trong cùng 1 năm đã xảy ra không chỉ một lần.
Sự thống trị của người Mỹ ở giải thưởng danh giá nhất thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu này còn thể hiện ở ngôi vị quán quân tuyệt đối trên bảng thành tích của giải, với 305 cá nhân đã từng được tôn vinh.
Đất nước của các chàng cao bồi và chuột Mickey mới trở thành vùng đất của các thiên tài và giải Nobel từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nửa đầu thế kỷ XX, châu Âu vẫn là thánh địa của khoa học với 109 giải Nobel, trong khi nước Mỹ chỉ nhận được 13. Thế nhưng kể từ năm 1969 đến nay, 169 giải Nobel đã về với nước Mỹ, trong khi chỉ có 92 giải được trao cho các nhà khoa học châu Âu.
Một trong những nguyên nhân chính của hiện tượng này là nước Mỹ ngày càng thu hút được nhiều bộ óc thiên tài. Ngay trước và trong Thế chiến thứ hai, do những chính sách cai trị tàn khốc của chế độ phát xít, rất đông các nhà khoa học Đức (trong đó có nhiều người thuộc dân tộc Do Thái) đã chạy sang Mỹ. Một trong những người đầu tiên là Einstein, tới Mỹ năm 1933.
Sau chiến tranh, dòng chất xám từ khắp thế giới vẫn tiếp tục đổ về nước Mỹ. Người ta ước tính, khoảng 40% các nhà khoa học Mỹ hiện nay được sinh ra ở châu Âu. Rất ít người trong số đó có ý định trở về.
|
Giáo sư Mario Renato Capecchi, Nobel Y - Sinh học 2007. Ông sinh tại châu Âu, làm việc tại Mỹ và giành giải Nobel cho những nghiên cứu thực hiện ở đây. Theo thống kê, khoảng 40% các nhà khoa học Mỹ hiện nay sinh ra tại châu Âu. |
Đôla - tấm giấy thông hành tới Stockholm
Báo Guardian nước Anh đã từng cay đắng nhận xét: “Ngày nay, để giành giải Nobel, người ta cần một cuốn hộ chiếu, hay ít ra là một tập séc Mỹ”. Không phải ngẫu nhiên mà nước Mỹ cho châu Âu “ngửi khói” trong cuộc đua đến lễ trao giải Nobel ở Stockholm.
Mỹ hiện là nước đầu tư lớn nhất cho nghiên cứu khoa học. Ngân sách dành cho các hoạt động nghiên cứu của Mỹ cao hơn 2 lần số tiền mà toàn bộ 27 thành viên EU bỏ ra cho mục đích tương tự (270 tỉ đôla/năm so với khoảng 123 tỉ).
Không chỉ mạnh tay chi tiền, nước Mỹ còn có chính sách phân bổ nguồn tài trợ và quản lý công tác nghiên cứu linh hoạt hơn châu Âu. Từ những năm 1960 đến nay, châu Âu tập trung chủ yếu vào các nghiên cứu ứng dụng, trong khi Mỹ vừa phát triển công nghệ, vừa khuyến khích các ngành khoa học cơ bản, lĩnh vực ưu tiên của giải Nobel, đồng thời là nền tảng của mọi phát minh.
Và trong khi các quốc gia từng là đầu tàu nghiên cứu của thế giới như Anh, Pháp, Đức còn đang loay hoay với đủ loại cơ chế hành chính thì nước Mỹ đã sớm nhận ra rằng không bao giờ có thể bỏ bệnh quan liêu giấy tờ và các thiên tài “vào cùng một giỏ”, chính phủ can thiệp càng nhiều thì càng có ít giải Nobel.
Chỉ có 1/6 trong số tất cả những người Mỹ giành giải Nobel từ năm 1969 đến nay xuất thân từ các trường công. Trong bảng xếp hạng các đại học Mỹ của báo USA Today, Berkeley, trường đứng đầu trong khối các đại học công chỉ xếp thứ 20. Thế nhưng so với các đại học ngoài nước Mỹ thì Berkeley vẫn là một đỉnh cao. Duy chỉ có Cambridge của Anh là có thể so sánh với nó về số giải Nobel.
|
Những người được giải Nobel được mời dự tiệc với vua và hoàng hậu Thụy Điển. |
Bao giờ nước Mỹ bị hạ bệ?
Trong những năm gần đây, người ta chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên hơn của một số gương mặt mới tại giải Nobel như Nhật Bản, Trung Quốc. Các nước EU thì triển khai kế hoạch tăng ngân sách dành cho nghiên cứu từ 1,9% GDP lên 3% vào năm 2010 để đuổi kịp Mỹ.
Từng quốc gia riêng lẻ ở châu Âu cũng có những chương trình cụ thể nhằm tô hồng bức tranh khoa học. Như với Đức là nỗ lực tìm kiếm những Einstein mới với ý định khôi phục lại vị trí dẫn đầu về số lượng giải Nobel như trước Thế chiến thứ hai. Hay nước Nga với mục tiêu khẳng định vị trí siêu cường trong khoa học. Tuy nhiên, không phải ngày một ngày hai mà những nỗ lực này hạ bệ được nước Mỹ.
Phải chờ ít nhất là hàng thập kỷ nữa người ta mới có thể chứng kiến những thành công trong việc cải thiện công tác nghiên cứu khoa học ở các nước châu Âu, ít nhất là về số lượng giải Nobel. Một nghiên cứu nghiêm túc thường phải mất nhiều năm để thực hiện và sau đó, theo như thông lệ ở giải Nobel, phải mất thêm chừng 10 đến 15 năm nữa để được tôn vinh.
Sự cạnh tranh từ các nước đang phát triển còn yếu ớt hơn rất nhiều. Cho đến nay, số giải Nobel được trao cho khu vực này chỉ đếm trên đầu ngón tay và chủ yếu là các giải Nobel Hòa bình, hoặc đôi khi là giải Nobel Văn chương, nhưng thường được gắn với các vấn đề chính trị nhạy cảm và gây tranh cãi.
Với khả năng đầu tư, hạ tầng vật chất dành cho nghiên cứu và hệ thống giáo dục như hiện nay, khả năng bứt phá trong cuộc đua đến giải Nobel của các nước đang phát triển là không có. Ít nhất là trong vài ba thập kỷ tới.
Hương Tiên