Báo Trung Quốc tuyên bố sẵn sàng chiến tranh với Ấn Độ Căng thẳng biên giới Trung-Ấn có dấu hiệu gia tăng và truyền thông Trung Quốc mới đây tuyên bố Bắc Kinh sẵn sàng cho một cuộc xung đột lâu dài với Ấn Độ.
Binh sĩ quân đội Trung Quốc. Theo Hindustan Times, Trung Quốc và Ấn Độ đã đối đầu nhau ở khu vực Dokalam từ tháng trước. Đây là vùng biên giới tranh chấp giữa ba bên Ấn Độ, Bhutan và Trung Quốc. Doka La là tên Ấn Độ đặt cho khu vực này trong khi Bhutan gọi là Dokalam còn Trung Quốc tuyên bố đây là một phần của Donglang. Căng thẳng leo thang khi quân đội Trung Quốc cho xây dựng một con đường ở đây. Cả hai nước Ấn Độ và Trung Quốc đã tăng cường điều thêm binh sĩ đến khu vực đề phòng xung đột nổ ra. Bắc Kinh cáo buộc New Delhi muốn đưa lính biên phòng vào khu vực tranh chấp để cản trở việc mở đường. Ấn Độ nói tuyến đường mà quân đội Trung Quốc xây dựng sẽ ảnh hưởng lớn đến an ninh của nước này. 
Binh sĩ Trung Quốc-Ấn Độ canh gác ở khu vực biên giới. Quân đội hai nước sau đó đối đầu tại một thung lũng chiến lược do Trung Quốc kiểm soát. Trong diễn biến mới nhất, thời báo Hoàn Cầu, ấn phẩm phụ của Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận Đảng Cộng sản Trung Quốc đăng tải bài xã luận tuyên bố Bắc Kinh không ngại “chiến tranh” với New Delhi. “Ấn Độ nên sẵn sàng cho một cuộc xung đột lâu dài”, Thời báo Hoàn Cầu viết. Thông điệp của Thời báo Hoàn Cầu phản ánh phần nào lập trường cứng rắn của Trung Quốc về vấn đề căng thẳng biên giới Trung-Ấn, theo Hindustan Times. “Trung Quốc có biện pháp mạnh hơn nữa dọc Đường Kiểm soát thực tế (Line of Actual Control – LAC). Nếu Ấn Độ tiếp tục gây căng thẳng, nước này sẽ phải hứng chịu hậu quả xung đột toàn diện với Trung Quốc”, Thời báo Hoàn Cầu viết. “Trung Quốc không muốn chiến tranh với Ấn Độ, nhưng Bắc Kinh cũng không ngại chiến tranh để bảo vệ chủ quyền và sẽ sẵn sàng cho xung đột”. 
Binh sĩ Ấn Độ chiến đấu trong cuộc chiến tranh biên giới Trung-Ấn năm 1962. Thời báo Hoàn Cầu nhắc lại sự kiện chiến tranh biên giới Trung-Ấn năm 1962. “Đường biên giới dài 3.500km giữa hai nước chưa bao giờ ngừng tranh chấp. Kể từ sự kiện năm 1962, Ấn Độ liên tục leo thang căng thẳng. Trung Quốc cần sẵn sàng cho xung đột va đối đầu trong tương lai”. “Nếu Ấn Độ muốn dồn quân ở khu vực biên giới thì hãy cứ làm. Trung Quốc sẵn sàng nhảy vào cuộc chơi với Ấn Độ cả về kinh tế và quân sự”, Thời báo Hoàn Cầu viết. Bài viết cũng khẳng định sức mạnh quân sự và cơ sở hạ tầng kinh tế của ở biên giới Trung-Ấn sẽ là ưu thế đáng kể của Trung Quốc nếu chiến tranh nổ ra một lần nữa. Cuối cùng, thời báo Hoàn Cầu đề nghị hai bên nên kiềm chế, tránh căng thẳng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trung Quốc mạnh cỡ nào nếu chiến tranh tổng lực với Ấn Độ hoặc VN?Số lượng chiến đấu cơ đông đảo cùng năng lực tên lửa chiến lược vượt trội là hai loại vũ khí hàng đầu Trung Quốc có thể dùng để tung vào một cuộc chiến tranh tổng lực với Ấn Độ.
Quân đội Trung Quốc tuy đông đảo nhưng vẫn đang trong giai đoạn hiện đại hóa toàn diện. Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) thành lập năm 1972, bao gồm lục quân, hải quân, không quân, pháo binh và cảnh sát vũ trang là lực lượng nòng cốt bảo vệ Trung Quốc. Trung Quốc quy định công dân từ 18-49 tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự. Do số lượng người tình nguyện gia nhập PLA mỗi năm đều cao nên Bắc Kinh không bắt buộc mọi công dân phải nhập ngũ. Mặc dù là lực lượng có quân số đông đảo nhất thế giới nhưng quân đội Trung Quốc chỉ mới đang trong quá trình hiện đại hóa, với ngân sách quốc phòng 152 tỷ USD. Dưới đây là đánh giá của Global Fire Power về năng lực quân sự Trung Quốc. Không quân 
Trung Quốc giới thiệu chiến đấu cơ thế hệ 5 J-20 hồi đầu năm nay. Không quân Trung Quốc (PLAAF) thành lập năm 1949 với 400.000 người, là lực lượng đông đảo nhất ở châu Á. PLAAF hiện vẫn đang trong giai đoạn loại bỏ các máy bay cũ từ thế kỷ trước để biên chế các chiến đấu cơ mới hiện đại và không chiến tốt hơn. PLAAF có tổng cộng 2.955 máy bay, bao gồm 1.271 chiến đấu cơ, 782 máy bay vận tải và 912 trực thăng. Trung Quốc tự chế tạo các loại chiến đấu cơ nội địa như Shenyang J-11, J-31 và Chengdu J-10, J-20. Nhưng các mẫu chiến đấu cơ hiện đại nhất của nước này đều mua từ Nga như Sukhoi Su-30MKK, Su-35. Trung Quốc cũng sở hữu phi đội ném bom chiến lược tầm xa Xian H-6K, H-8 và H-20. Đây là các máy bay ném bom Trung Quốc tự sản xuất dựa trên bản quyền thiết kế của Nga. Giới chuyên gia đánh giá, Trung Quốc không chỉ có số lượng chiến đấu cơ gấp đôi Ấn Độ mà các phi đội máy bay này còn dễ dàng chiếm ưu thế ở khu vực biên giới phía tây với Ấn Độ nhờ các sân bay quân sự ở Tây Tạng, Tân Cương. Nhưng các máy bay này cũng không thể tiến sâu vào lãnh thổ Ấn Độ vì phạm vi hoạt động hiệu quả hạn chế. Các chiến đấu cơ thế hệ 5 của Trung Quốc như J-20, J-31 đều là mẫu máy bay mới nhất mà Ấn Độ không có phiên bản đối trọng tương ứng. Hải quân 
Tàu ngầm hạt nhân Type 094 của Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc (PLAN) là lực lượng yếu nhất bởi Bắc Kinh chỉ mới tập trung phát triển hải quân được hơn một thập kỷ qua. Lực lượng tàu chiến Trung Quốc đông đảo với 714 tàu nhưng hầu hết đều đã lỗi thời. Bắc Kinh hiện chỉ có 5 tàu ngầm hạt nhân nhưng chỉ 4 tàu Type 094 lớp Jin, lượng giãn nước 11.000 tấn là đủ khả năng tung đòn tấn công hạt nhân. Tàu sân bay Liêu Ninh nằm trong nhóm tác chiến tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc. Theo các chuyên gia, nếu chiến tranh với Ấn Độ nổ ra, khả năng tàu sân bay này trải qua hành trình dài đến Ấn Độ Dương là điều bất khả thi. Trung Quốc vẫn phải chờ đợi vào tàu sân bay nội địa hiện đại và các tàu khu trục lớn nhất châu Á Type 055. Lục quân 
Trung Quốc có kế hoạch cắt giảm số binh sĩ thường trực xuống còn 1 triệu người. Lục quân Trung Quốc hiện vẫn là lực lượng đông đảo nhất trên thế giới với 2,3 triệu quân chính quy. Bắc Kinh trong tương lai có kế hoạch cắt giảm con số này xuống 1 triệu người. Quân đội Trung Quốc dày dạn kinh nghiệm chiến trường, từng trải qua nội chiến, Thế chiến 2, chiến tranh Triều Tiên và các cuộc chiến tranh biên giới. Phương tiện chiến đấu của lục quân cũng hết sức đông đảo với 6.457 xe tăng chiến đấu chủ lực, đáng chú ý nhất là hơn 1.000 chiếc Type 99 hiện đại nhất. Trung Quốc cũng sở hữu 4.788 xe chiến đấu bộ binh, 1.710 pháo tự hành, 6.246 lựu pháo và 1.770 ống phóng rocket. Giống như trong chiến tranh biên giới Ấn Độ năm 1962, Bắc Kinh nhiều khả năng sẽ không tận dụng ưu thế bộ binh trước quân đội Ấn Độ vì địa hình núi cao hiểm trở và các tuyến đường nối liền biên giới vẫn còn khá sơ sài. Vũ khí hạt nhân 
Tên lửa đạn đạo liên lục địa DF-31A của Trung Quốc. Theo thống kê của tổ chức kiểm soát vũ khí, Trung Quốc hiện có 270 vũ khí hạt nhân. Loại tên lửa đạn đạo liên lục địa DF-41 của Trung Quốc có tầm bắn tới 15.000km, đạt tốc độ tối đa 30.000 km/giờ và mang theo 10 đầu đạn hạt nhân. Trung Quốc cũng vượt trội hơn Ấn Độ khi sở hữu các hệ thống đánh chặn tên lửa đạn đạo, ngăn các mối đe dọa tầm xa bay đến lãnh thổ Trung Quốc. Các chuyên gia nhận định, đòn tấn công hạt nhân của Trung Quốc chắc chắn sẽ mạnh mẽ và gây thiệt hại nhiều hơn so với vũ khí hạt nhân Ấn Độ. Cuối cùng, các tàu ngầm Trung Quốc cũng có thể phóng 90 quả tên lửa đạo đạo từ dưới mặt nước (SLBM), khiến Ấn Độ không kịp có thời gian để phản ứng. Viễn cảnh chiến tranh 2,6 tỷ người giữa Trung Quốc-Ấn ĐộMột cuộc chiến tranh giả định giữa Trung Quốc và Ấn Độ sẽ là cuộc chiến lớn nhất và tàn khốc nhất ở châu Á, khiến cả khu vực châu Á-Thái Bình Dương rung chuyển và tác động lớn đến nền kinh tế thế giới. Xe tăng Trung Quốc trong một cuộc duyệt binh. Chuyên gia quân sự Kyle Mizokami trên tờ National Interest đưa ra nhận định về một chiến tranh giả định nổ ra giữa Trung Quốc và Ấn Độ và những hệ quả tiêu cực. Trung Quốc và Ấn Độ chia sẻ biên giới với nhau tại hai địa điểm, phía bắc Ấn Độ/tây Trung Quốc và đông Ấn Độ/nam Trung Quốc. Hai nước rơi vào cuộc chiến tranh biên giới tháng 10.1962 kéo dài một tháng. Kết quả là Bắc Kinh giành được thắng lợi nhỏ, kiểm soát cao nguyên Aksai Chin. Ngày nay, cả hai nước đều duy trì chiến lược “không tấn công hạt nhân phủ đầu” nên khả năng nổ ra chiến tranh hạt nhân là điều khó xảy ra. Hai nước cũng có số dân đứng hàng đầu thê giới, xấp xỉ 1,3 tỷ người mỗi nước, nên khả năng nước này xâm lược nước kia là không thể. Tác giả Mizokami nhận định, không chiến sẽ là điểm nóng lớn nhất và gây thiệt hại nặng nề nhất cho hai nước. Ấn Độ cũng nắm trong tay quân bài kiểm soát hàng hải chiến lược, tác động tiêu cực đến nền kinh tế Trung Quốc. 
Chiến đấu cơ J-20 được kỳ vọng sẽ tạo nên bước đột phá trong đơn vị không quân Trung Quốc. Cả Trung Quốc và Ấn Độ hiện tại đều duy trì lực lượng không quân hùng hậu. Không quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAF) dựa vào các chiến đấu cơ cất cánh từ căn cứ tại thành phố Lan Châu, tỉnh Cam Túc để tấn công khu vực tranh chấp ở Himchal Pradesh còn quân khu Thành Đô đảm nhận trọng trách tấn công địa điểm tranh chấp ở Arunachal Pradesh. Trung Quốc tập trung nhiều phi đội chiến đấu cơ J-11, J-10, phi cơ lỗi thời hơn như J-7, J-8 và hai trung đoàn máy bay ném bom chiến lược H-6. Nhưng việc thiếu các căn cứ không quân giáp biên giới Ấn Độ là một cản trở lớn trong chiến dịch đường không. Xét về tác chiến đường không, không quân Ấn Độ rõ ràng có lợi thế hơn vì New Delhi chỉ cách mặt trận Tây Tạng khoảng 342km. Ấn Độ sở hữu phi đội chiến đấu cơ hùng hậu bao gồm 230 chiếc Su-30Mk1 Flankers, 69 chiếc MiG-29 và ngay cả các máy bay Mirage 2000 vẫn vượt trội hơn hầu hết các phi cơ Trung Quốc, trừ mẫu J-20 hiện đại nhất. 
Chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MK Flanker phóng tên lửa Kh-29. Số lượng máy bay hùng hậu cũng đảm bảo Ấn Độ duy trì khả năng bảo vệ các khu vực khác của lãnh thổ, trong khi vẫn tập trung vào cuộc so tài với Trung Quốc. Bù đắp cho nhược điểm về tác chiến bằng không quân là khả năng Trung Quốc sử dụng các tên lửa đạn đạo tầm xa hiện đại thuộc lực lượng tên lửa chiến lược. Lực lượng này nắm trong tay cả vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường với các tên lửa từ tầm ngắn đến tầm trung như DF-11, DF-15 và DF-21. Các tên lửa này một khi được khai hỏa hoàn toàn có thể san phẳng các mục tiêu chiến lược ở Ấn Độ mà New Delhi không có cách nào có thể chống đỡ. Ấn Độ cũng không có tên lửa đạn đạo đối đất và phải dựa vào không quân để tiến sâu, phá hủy hệ thống tên lửa Trung Quốc. Phiên bản tên lửa đạn đạo duy nhất của Ấn Độ hiện nay chỉ phục vụ chiến tranh hạt nhân mà không thể tấn công bằng đầu đạn thông thường. Giao tranh trên mặt đất giữa lực lượng bộ binh hai nước dường như là dấu hiệu bước sang giai đoạn quan trọng trong cuộc chiến. Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn ngược lại, theo chuyên gia Mikozami. 
Tên lửa đạn đạo chống hạm hiện đại DF-21D của Trung Quốc. Hai khu vực biên giới tranh chấp giữa Ấn Độ và Trung Quốc đều là vùng hẻo lánh, địa hình phức tạp. Các xe bọc thép, xe tăng không thể tiếp cận khu vực này nếu không có sự hỗ trợ của các máy bay vận tải. Theo tác giả Mikozami, bất kỳ một cuộc đổ bộ bằng bộ binh nào cũng sẽ gặp tổn thất nặng nề từ lực lượng pháo binh đối phương. Do đó, dù Ấn Độ có 1,2 triệu quân và Trung Quốc duy trì 2,2 triệu quân chính quy, hai bên sẽ rất hạn chế tung bộ binh vào chiến đấu. Hải quân mới chính là mặt trận quyết định nếu xung đột nổ ra giữa Trung Quốc và Ấn Độ, tác giả Mikozami nhận định. Địa hình chiến lược kiểm soát Ấn Độ Dương giúp New Delhi sẽ dễ dàng tung lực lượng tàu nổi, tàu ngầm hạt nhân và tàu sân bay INS Vikramaditya phong tỏa tuyến đường giao thương huyết mạch của Trung Quốc với châu Âu, Trung Đông và châu Phi. Hải quân Trung Quốc sẽ phải mất cả tuần mới đến được khu vực giao tranh với Ấn Độ. Đó sẽ là nhiệm vụ không hề dễ dàng chút nào bởi Ấn Độ dễ dàng chi viện và sửa chữa tàu chiến tại hải cảng ở khoảng cách gần hơn. 
Tàu sân bay INS Vikramaditya giúp hải quân Ấn Độ chiếm ưu thế lớn. Chuyên gia Mikozami cho rằng, Trung Quốc có khoảng 77 ngày để tìm kiếm thắng lợi quyết định trước khi nguồn dự trữ nhiên liệu chiến lược cạn kiệt. Nếu không, hoạt động giao thương đến và đi từ Trung Quốc sẽ phải vòng sang tây Thái Bình Dương, nơi có hạm đội Mỹ và đồng minh đóng quân. Có thể nói, trong một cuộc chiến tranh giả định giữa Trung Quốc-Ấn Độ, Bắc Kinh chiếm lợi thế hơn về vũ khí tầm xa chiến lược nhưng tác chiến trên biển và khả năng kiểm soát tác động đối với nền kinh tế toàn cầu lại thuộc về New Delhi. Tác giả Mikozami kết luận, chiến tranh nổ ra giữa hai quốc gia có số dân đông nhất thế giới sẽ rất tàn khốc, tác động tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu mà không bên nào có thể giành chiến thắng quyết định. Đó cũng là lý do vì sao Trung Quốc-Ấn Độ đã tránh khả năng bùng phát xung đột trong hơn 50 năm qua. 0.000 quân TQ từng tràn qua biên giới, đánh sâu vào Ấn ĐộMâu thuẫn biên giới lên tới đỉnh điểm khi 80.000 quân Trung Quốc tràn vào Ấn Độ, mở đầu chiến tranh biên giới Trung-Ấn năm 1962.
Ảnh minh họa. Khi hai quốc gia hùng mạnh không thể đạt được sự đồng thuận về vấn đề biên giới, rắc rối xảy ra. Đó là trường hợp của Trung Quốc và Ấn Độ vào tháng 10.1962. Cao nguyên Aksai Chin một trong hai khu vực tranh chấp căng thẳng giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Khu vực này nối Tây Tạng với tỉnh Tân Cương của Trung Quốc. Ấn Độ cứng rắn với Trung Quốc Căng thẳng Trung-Ấn bắt đầu từ năm 1959, khi Ấn Độ phát hiện ra việc Trung Quốc bí mật xây đường cao tốc nối Tây Tạng với Tân Cương, thông qua lãnh thổ Ấn Độ ở cao nguyên Aksai Chin. Đáp trả Trung Quốc, Thủ tướng Ấn Độ khi đó là Jawaharlal Nehru ra lệnh tăng cường binh sĩ đến khu vực. Các nhóm binh sĩ Ấn Độ từ 5-10 người tiến vào vùng lãnh thổ tranh chấp và lập tiền đồn ở đây. Xung đột nhỏ lẻ nổ ra giữa hai bên khiến quân đội Ấn Độ đề xuất chuyển 7 tiểu đoàn từ biên giới Pakistan sang tăng viện. Tuy nhiên, chính phủ đã bác bỏ đề xuất này và ra lệnh tiếp tục lập tiền đồn. Cựu đại tá Ấn Độ Anil Athale nhận định, Trung Quốc không có ý định chiếm thêm đất. Nhưng Ấn Độ buộc phải có hành động cụ thể trước sức ép từ người dân. Trong khi đó, quân đội đề xuất cần phải xây dựng cơ sở quân sự kiên cố ở Aksai Chin để đề phòng. Tình hình biên giới trở nên phức tạp khi Trung Quốc gửi thông điệp tới Ấn Độ, nhấn mạnh rằng quân đội nước này chiếm ưu thế ở biên giới và New Delhi tốt nhất là nên tránh việc kích động chiến tranh. 
Binh sĩ Ấn Độ chiến đấu trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1962. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ cho rằng chiến lược lập tiền đồn là một thành công, khiến Trung Quốc phải kiềm chế trong 2 năm qua. “Chúng ta phải giương cao lá cờ của mình”, đó là mệnh lệnh. Ngày 14.10.1962, Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận Đảng Cộng sản Trung Quốc đăng tải bài xã luận, nhắc nhở độc giả về khả năng một cuộc tấn công nhằm vào Ấn Độ xảy ra. “Những tuyên bố của Thủ tướng Nehru chỉ càng khiến cho Trung Quốc sẵn sàng tấn công Ấn Độ”. Hai ngày sau đó, khủng hoảng tên lửa Cuba nổ ra khi Liên Xô tìm cách đưa vũ khí hạt nhân đến Cuba. Giới chuyên gia cho rằng, Trung Quốc có thể đã tính toán về việc Mỹ phải tập trung giải quyết căng thẳng mà không thể giúp Ấn Độ. Chuyên gia tình báo hàng đầu của Mỹ, Bruce Riedel từng nhận định, mục tiêu tiến quân của Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông khi đó ngoài vấn đề lãnh thổ còn nhằm làm bẽ mặt Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, đồng thời chứng tỏ sức mạnh với Tổng thống Mỹ John F.Kennedy và lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev. Quân Trung Quốc tràn qua biên giới Ngày 20.12.1962, 80.000 quân Trung Quốc mở hai đợt tấn công đồng thời cách nhau 1.000km. Lực lượng Ấn Độ trấn giữ biên giới chỉ khoảng 10.000-12.000 người. Cuộc chiến kéo dài một tháng trong điều kiện khắc nghiệt ở độ cao trên 4.250 m, thời tiết giá lạnh và hai bên đều không sử dụng không quân. 
Binh sĩ Trung Quốc trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1962. Quân Trung Quốc tấn công với quân số đông gấp nhiều lần lại sử dụng súng trường tự động trong khi Ấn Độ chỉ có những khẩu súng bắn từng phát một lỗi thời nên dễ dàng chiếm ưu thế. Ở mặt trận phía đông, quân Trung Quốc mở đợt tấn công vào phía nam bờ sông Namka Chu. Một tiểu đoàn Ấn Độ không thể chống đỡ 3 trung đoàn Trung Quốc và thất thủ sau vài giờ. Lực lượng Ấn Độ dự định tập kích khi quân Trung Quốc tiến qua 5 chiếc cầu bắc qua sông. Nhưng phía Trung Quốc đã dự tính trước, dồn pháo kích từ sáng sớm đồng thời tấn công từ nhiều hướng khiến quân Ấn Độ bỏ chạy khỏi chiến hào. Lực lượng Ấn Độ phòng thủ biên giới cũng không thể gọi điện yêu cầu chi viện vì đường dây liên lạc bị cắt đứt. Nhiều binh sĩ Ấn Độ phải chạy qua Bhutan để thoát thân vì quân Trung Quốc không vượt qua ranh giới này. Tại những điểm nóng giao tranh khác, quân Ấn Độ hầu như chỉ kháng cự yếu ớt trước khi đồng loạt bỏ chạy. Ở mặt trận phía tây trên cao nguyên the Aksai Chin, Trung Quốc dễ dàng nắm quyền kiểm soát các khu vực tranh chấp. Lực lượng Ấn Độ cố thủ tại các cứ điểm hầu hết đều bị tiêu diệt hoặc bắt làm tù binh. Đến ngày 24.10, quân Trung Quốc xộc thẳng vào lãnh thổ Ấn Độ, tiến sâu thêm 16km trước khi nhận lệnh tạm thời ngừng tấn công từ Thủ tướng Chu Ân Lai. Phía Trung Quốc gửi thư yêu cầu phân địch lại biên giới tranh chấp. Ấn Độ bác bỏ đề nghị này khiến chiến sự quay trở lại vào ngày 14.11. Giao tranh nổ ra ác liệt nhất tại Rezang La, khi 123 binh sĩ Ấn Độ tiêu diệt 1.300 quân đối phương. Sau trận đánh này, quân Ấn Độ dù chiến thắng nhưng vẫn phải rút gần hết khỏi cao nguyên Aksai Chin. Điểm xa nhất mà quân Trung Quốc tới được là ngoại ô thành phố Tezpur, bang Assam, nằm sâu trong biên giới Ấn Độ 50km. 
Bản đồ minh họa điểm nóng tranh chấp biên giới Trung-Ấn. Cao nguyên Aksai Chin rơi vào tay Trung Quốc sau chiến tranh biên giới năm 1962. Chính quyền địa phương ra lệnh cho người dân sơ tán trong khi quan chức ở lại để phá hủy các tài liệu và kho dự trữ tiền mặt đề phòng khả năng rơi vào tay Trung Quốc. Trước nguy cơ thảm bại, Thủ tướng Ấn Độ Nehru đã phải cầu cứu Mỹ. Ông yêu cầu người đồng cấp Kennedy điều chiến đấu cơ và máy bay vận tải đến hỗ trợ quân Ấn Độ. New Delhi còn muốn có thêm 2 phi đội oanh tạc cơ B-47 để dội bom Tây Tạng. Đáp lời, Tổng Thống Mỹ Kennedy khi đó đã ra lệnh điều đội tàu sân bay áp sát Ấn Độ vào ngày 19.11. Chuyên gia Riedel nhận định, đây là một trong những nguyên nhân chính khiến Trung Quốc vội tuyên bố ngừng bắn và rút quân vào ngày 21.11. Thiệt hại đối với Ấn Độ sau một tháng giao tranh là khá nặng nề. Ước tính 1.383 binh sĩ thiệt mạng, 1.047 người bị thương, 1.696 người mất tích và gần 4.000 lính bị bắt làm tù binh. Thương vong bên phía Trung Quốc ước tính hơn 2.300 người. Chiến tranh biên giới Trung-Ấn năm 1962 được coi là thắng lợi đối với Trung Quốc bởi Bắc Kinh nắm quyền kiểm soát cao nguyên Askai Chin (rộng gần 38.000km2) đến tận ngày nay, kết nối Tây Tạng với Tân Cương. Sau chiến tranh, Ấn Độ phải đánh giá lại mối đe dọa từ Trung Quốc và cương quyết đi theo con đường phát triển vũ khí hạt nhân. Về phần mình, mỗi khi xảy ra căng thẳng biên giới, Bắc Kinh đều nhắc nhở New Delhi về “bài học năm 1962”. Trận tử thủ bi tráng của 123 lính Ấn Độ trước 5000 quân TQThứ Bảy, ngày 22/07/2017 19:01 PM (GMT+7) Chiến tranh biên giới Ấn-Trung 1962 được coi là sự kiện đáng quên của Ấn Độ, nhưng trong trận chiến không cân sức ấy, những người lính Ấn Độ đã làm nên điều thần kỳ.
Thất bại trong cuộc chiến tranh biên giới Trung-Ấn năm 1962 là một trong những nguyên nhân thúc đẩy Ấn Độ hiện đại hóa quân đội. Chiến tranh biên giới Trung-Ấn nổ ra ngày 20.10.1962 đánh dấu đợt tiến quân ồ ạt của Trung Quốc trên khắp các khu vực tranh chấp với Ấn Độ. Cuộc chiến không cân sức Quân Trung Quốc tiến qua cao nguyên Aksai Chin hướng đến khu vực Ladakh, nơi có cao điểm chiến lược Rezang La. Nếu sân bay quân sự Chunsul đặt ở khu vực này thất thủ, Ấn Độ hoàn toàn có thể để mất cả Ladakh vào tay người Trung Quốc Trách nhiệm phòng thủ cứ điểm quan trọng nhất ở Ladakh đặt lên vai 123 người lính Ấn Độ thuộc 2 tiểu đoàn bộ binh do thiếu tá Shaitan Singh chỉ huy. Nhóm binh sĩ Ấn Độ đóng quân từ tháng 9 và đến ngày 18.12.1962, họ phải chiến đấu chống quân Trung Quốc trong một trận đánh không cân sức. Đó là một ngày Chủ nhật lạnh cóng và nhiệt độ có lúc xuống đến âm 40 độ C. Một vết nhỏ ở bàn tay trong điều kiện thời tiết như vậy cũng sẽ khiến cả bàn tay bị buộc phải cắt bỏ. 
Địa hình đồi núi khiến cho Ấn Độ rất khó khăn trong việc điều quân tiếp viện. Con người thông thường không thể tồn tại trong điều kiện nhiệt độ như vậy trong thời gian dài nhưng các binh sĩ Ấn Độ vẫn phải chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Để mất cao điểm Rezang La, nơi cao hơn mực nước biển tới 4.800 mét, đồng nghĩa với việc Ấn Độ sẽ không thể tiếp cận Ladakh từ phía đông bắc. 3 giờ 30 phút sáng, 5.000-6.000 quân Trung Quốc tấn công Rezang La dưới sự yểm trợ của pháo binh. Lực lượng Trung Quốc được trang bị hỏa lực cực mạnh bao gồm súng máy, súng cối, rocket 120mm, súng không giật 75mm và 57mm chuyên dùng để tấn công lô cốt quân sự. Khi thiếu tá Shaitan Singh nhận ra đợt tấn công của quân Trung Quốc, ông đã gọi điện cho trung tâm chỉ huy và yêu cầu chi viện. Shaitan nói qua radio rằng ông và người của mình sẽ cố thủ cho đến khi quân tiếp viện đến. Tuy nhiên, yêu cầu chi viện bị bác bỏ bởi Ấn Độ không sẵn sàng dùng máy bay vận tải đem vũ khí và nhân lực đến Rezang La. Sở chỉ huy còn yêu cầu Shaitan rút người của mình khỏi khu vực để tránh thương vong. Thiếu tá Shaitan Singh trả lời rằng ông sẽ không rời Rezang La và quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Trong thông điệp cuối cùng với binh sĩ dưới quyền, Shaitan nói: “Rezang La nuôi sống chúng ta nhiều năm qua, đến lúc chúng ta phải bảo vệ nơi này. Tôi yêu cầu mọi người giữ vững vị trí và chiến đấu bảo vệ Rezang La”. Trận tử thủ vĩ đại của người Ấn Độ Trong bối cảnh hàng ngàn quân Trung Quốc áp sát cứ điểm phòng thủ của 123 lính Ấn Độ, thiếu tá Shaitan Singh ra lệnh cho mọi người bình tĩnh và không phung phí đạn dược. Chỉ đến khi quân Trung Quốc đến gần, binh sĩ Ấn Độ mới đồng loạt nã súng khiến đối phương bất ngờ. 
Ram Kumar là một trong số ít người lính Ấn Độ sống sót sau trận Rezang La. Nguồn tin của quân đội Ấn Độ kể lại rằng, binh sĩ Trung Quốc đã gọi điện về trung tâm chỉ huy, thông báo “về tin tình báo sai lệch và chúng tôi chỉ còn cách Rezang La vài mét. Dường như có tới 3.000 quân Ấn Độ cố thủ ở đây”. Quân Trung Quốc mặc dù chịu thương vong lớn nhưng được hỗ trợ đạn dược và tăng cường binh lực nên tiếp tục tấn công không ngừng nghỉ trong suốt 5 giờ đồng hồ. Đại úy Ramchander Yadav, một trong 6 người sống sót bên phía Ấn Độ kể lại rằng quân Trung Quốc dường như không hề biết sợ. “Họ tấn liên tục tấn công dù bị đẩy lùi 2 lần”. Đến khi cạn kiệt đạn dược, những người lính Ấn Độ phải chiến đấu bằng dao và lưỡi lê. Yadav nói người lính tên Naik Ram Singh từng là một đô vật. Anh ta dùng dao giết tất cả những kẻ địch lao đến gần cho đến khi bị bắn vào đầu. Bản thân thiếu tá Shaitan Singh là một trong những người chiến đấu anh dũng nhất. Ông cướp được khẩu súng máy tự động của quân Trung Quốc và nã đạn không ngừng nghỉ cho đến khi gục ngã. Yadav kể lại rằng thi thể Shaitan đầy những vết đạn. Tay vị thiếu tá này vẫn giữ vững cò súng đến giây phút cuối cùng. Yadav nói ông là người được Thiếu tá Shaitan Singh ra lệnh trở về sở chỉ huy để kể lại về những gì đã xảy ra ở Rezang La và cách những người lính Ấn Độ chiến đấu anh dũng đến chết như thế nào. Trong số 123 người cố thủ ở Rezang La, 114 người chết, 8 người bị bắt làm tù binh còn ông Yadav về được đến sở chỉ huy vào 1 giờ chiều ngày hôm sau (19.11.1962). 
Nơi tưởng niệm những người lính Ấn Độ ngã xuống trong trận Rezang La. Điều thần kỳ là những tù binh này đều trốn thoát trở về Ấn Độ không lâu sau chiến tranh. Ở Rezang La ngày nay có đặt một tấm bia tưởng niệm nhỏ, ghi nhớ công lao của những người lính chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ lãnh thổ. Tấm bia viết rõ thương vong của phía Trung Quốc vào khoảng 1.300 người. Trả lời phỏng vấn trên India Express, Yadav từng nói: “Không ai tin chúng tôi đã tiêu diệt nhiều quân địch đến vậy. Nhưng đó là sự thật”. Yadav nói xác quân Trung Quốc nằm la liệt khắp nơi và đơn vị của ông chỉ chịu thua vì cạn kiệt đạn dược. Trận tử thủ lịch sử này từng được Bollywood dựng thành phim năm 1964 và ca khúc Kar Chale Hum Fida trong phim khiến nhiều người Ấn Độ rơi nước mắt. Đến ngày 21.11.1962, Trung Quốc bất ngờ tuyên bố đạt được mục đích trong cuộc chiến tranh biên giới và rút quân. Ladakh ngày nay trở thành điểm du lịch nổi tiếng của những người ưa mạo hiểm. Khách du lịch cũng được phép đến tham quan nơi 123 người lính Ấn Độ từng tử chiến năm xưa. _____________ Sau thất bại trong chiến tranh biên giới Ấn-Trung năm 1962, Ấn Độ từng đáp trả khiến Trung Quốc không dám gây hấn ở khu vực tranh chấp. VN nên học Dư luận sục sôi đòi chớp thời cơ thống nhất Đài Loan và độc chiếm biển Đôngbằng vũ lực Trung Quốc đang cố gắng trấn an trong bối cảnh dư luận trong nước và nhiều nhà phân tích quân sự liên tục kêu gọi Bắc Kinh phải tranh thủ thời gian dịch Covid-19 bùng phát để thống nhất Đài Loan và độc chiếm biển Đông bằng vũ lực. 
Dư luận trong nước liên tục thúc giục Bắc Kinh thống nhất Đài Loan bằng vũ lực (ảnh: SCMP) Một bài viết mới đây được xuất bản trên tạp chí của Trường Đảng Trung ương – nơi đào tạo các quan chức cấp cao tại Trung Quốc đã viện dẫn lịch sử từ đời nhà Thanh để nói về chiến lược thống nhất Đài Loan của Bắc Kinh. Theo đó, sau khi nhà Thanh xâm chiếm thành công Trung Nguyên, năm 1662, những tàn dư cuối cùng của nhà Minh đã bỏ trốn sang Đài Loan. Nhà Thanh đã dành 20 năm sau đó để chuẩn bị cho công cuộc chinh phạt Đài Loan. Trước khi sử dụng vũ lực như một biện pháp cuối cùng, nhà Thanh cũng đã thực hiện các biện pháp về chính trị, ngoại giao, kinh tế để đạt được mục tiêu xâm chiếm Đài Loan của mình. Bài viết cho rằng, nhà Thanh đã tìm cách cô lập chính trị tại Đài Loan. Đồng thời, nhà Thanh cũng khuyến khích người dân trên đảo quay về đất liền làm ăn, không cần tiếp tục chịu sưu cao thuế nặng do tầng lớp cai trị Đài Loan lúc bấy giờ áp đặt. Cùng với những biện pháp tấn công về chính trị, kinh tế, hoàng đế Khang Hy của nhà Thanh còn chuẩn bị một lực lượng hải quân hùng hậu để tấn công và kết quả là đã chiếm được Đài Loan vào năm 1683. Thời gian gần đây, nhiều chuyên gia phân tích và tướng lĩnh về hưu đã kêu gọi Bắc Kinh nhanh chóng giành lại quyền kiểm soát Đài Loan bằng vũ lực. Nhóm này cho rằng, trong bối cảnh Mỹ - chỗ dựa lớn nhất của Đài Loan, đang bận bịu vì sự bùng phát của dịch Covid-19 kèm theo đó là nhiều tàu quân sự bị virus tấn công, thì đây sẽ là cơ hội tốt để Trung Quốc thống nhất Đài Loan bằng vũ lực. Tian Feilong, phó giáo sư tại Đại học Beihang (Bắc Kinh), cho rằng, mô hình một quốc gia hai chế độ - điều mà Bắc Kinh hy vọng có thể sử dụng để thống nhất Đài Loan đã không còn phù hợp, bằng chứng là những cuộc biểu tình chống chính quyền liên tiếp nổ ra tại Hồng Kông vào năm ngoái và năm nay. Chính vì vậy, sử dụng vũ lực là biện pháp cuối cùng nếu Bắc Kinh muốn thống nhất Đài Loan. 
Tàu chiến Trung Quốc tập trận (ảnh: SCMP) Tuy nhiên, Qiao Liang – một tướng không quân về hưu của quân đội Trung Quốc, lại cho rằng, dịch Covid-19 bùng phát không phải là thời điểm thích hợp để thống nhất Đài Loan bằng vũ lực và Bắc Kinh có thể phải “trả giá đắt” nếu thực hiện hành động này. Theo cựu tướng Qiao Liang, Trung Quốc trước hết nên chờ đợi cho đến khi nước này có đầy đủ khả năng quân sự và kinh tế để có thể thách thức Mỹ, sau đó mới tính đến chuyện thống nhất Đài Loan. Kênh liên lạc giữa Đài Loan và Trung Quốc đã bị “đóng băng” kể từ năm 2016, khi bà Thái Anh Văn lên nắm quyền và có tư tưởng độc lập cho hòn đảo. Một nguồn tin quân sự tin cậy cho biết, Bắc Kinh hiện vẫn muốn duy trì tình hình như hiện tại và hy vọng có thể thống nhất Đài Loan mà không phải động đến vũ lực, theo SCMP. Lee Chih-horng – chuyên gia nghiên cứu về quan hệ xuyên eo biển Đài Loan tại Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore), cho rằng, Bắc Kinh vẫn muốn theo sát lịch trình thống nhất Đài Loan đã vạch ra trước đó và không muốn sử dụng vũ lực vào thời điểm này. “Bắc Kinh biết rằng họ cần phải hạ nhiệt cơn sốt dư luận đang kêu gọi sử dụng vũ lực để thống nhất Đài Loan. Nhiều phương tiện truyền thông xã hội tại đại lục liên tục nhắc đi nhắc lại chủ đề này và có thể gây chú ý tới Đài Loan một cách không mong muốn. Đây không phải thời điểm thích hợp sử dụng vũ lực và ông Tập Cận Bình chắc chắn sẽ tìm ra giải pháp tối ưu để giải quyết vấn đề Đài Loan”, ông Lee Chih-horng nhận định. |