Vietnamville http://www.vietnamville.ca

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có được giải phóng cuối đời ở căn nhà 2m2
14.12.2019

Thảm cảnh dân miền Nam sau ngà giải phóng
Không có nhà vệ sinh, vợ chồng bà Ngọc (TP.HCM) phải sang hàng xóm xin tắm rửa, đi vệ sinh gần 30 năm qua.


Bà Ngọc cho biết, căn nhà này vốn là cái kho chứa đồ trong căn nhà rộng hàng ngàn m2 của một nghệ sĩ cải lương đã sang Mỹ định cư. 'Phần đất phía sau, cô ấy ngăn ra từng căn nhà nhỏ cho anh em, họ hàng sống. Cái kho này trước đây để không', bà Ngọc Kể.

Năm 1990, thấy vợ chồng bà Ngọc khó khăn nên chính quyền xin cho bà ở, với điều kiện không được bán, cho thuê và sửa chữa. 'Tôi sống ở đây gần 30 năm rồi', bà Ngọc nói.

 
Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 1

Nhấn để phóng to ảnh

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 2

Nhấn để phóng to ảnh

Bà Ngọc cho biết, trước đây, gia đình bà có căn nhà rộng hàng trăm m2 giữa trung tâm Quận 3. Sau đó, mẹ bà bán rồi chuyển về Trà Vinh sống. ‘Chị em tôi thấy việc làm ăn ở Sài Gòn dễ hơn nên khuyên mẹ đừng bán nhà, nhưng không được’, bà Ngọc kể. Bố mẹ về quê sống, chị em bà Ngọc chia nhau đi ở trọ mỗi người một nơi.

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 3

Nhấn để phóng to ảnh

Vợ chồng bà Ngọc có 3 người con, hai trai một gái. Trước đây, cả 5 người nhà bà cùng sống trong căn nhà 'tý hon'. Hiện, cô con gái đã đi lấy chồng, hai người con trai mất vì bệnh nên chỉ còn vợ chồng bà và cô cháu ngoại 5 tuổi sống. Hàng ngày, bà đi làm phục vụ quán ăn, ông Phạm Văn Đức (76 tuổi, chồng bà Ngọc) chạy xe ôm kiếm tiền lo ăn uống, nuôi cháu ngoại.

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 4

Nhấn để phóng to ảnh

Bàn thờ ông bà treo lên cao.

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 5

Nhấn để phóng to ảnh

Nhà chật, ban đêm, ông Đức phải mắc võng nằm bên ngoài, nhường chỗ ngủ cho vợ và cháu ngoại. Hôm nào gặp trời mưa, hai ông bà phải ngủ ngồi để không đánh thức giấc ngủ của cháu. Quạt, quần áo, bát đĩa, xoong nồi, tivi đều được vợ chồng bà Ngọc treo lên để không chiếm diện tích.

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 6

Nhấn để phóng to ảnh

Bếp nấu, ông bà để ngoài trời. Vì không có tiền mua ga, dầu, hàng ngày, bà Ngọc phải đi nhặt các thanh gỗ cũ, cành cây, than... về nấu ăn.

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 7

Nhấn để phóng to ảnh

 Đây là góc ông bà treo hình kỷ niệm của các con.

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 8

Nhấn để phóng to ảnh

Nhà chật, nhưng ra đường thấy có vật dụng còn dùng được, bà Ngọc mang về cất lên cao, thành ra, mọi ngóc ngách của căn nhà đều chứa đồ. Bà cho biết, nhiều người khuyên bà nên vứt bớt các đồ dùng không cần thiết cho thoáng, nhưng bà tiếc của. 

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 9

Nhấn để phóng to ảnh

Chỗ ngủ, ăn uống, sinh hoạt, tiếp khách chỉ rộng khoảng 3 gang tay, vì thế, bà Ngọc dặn cháu ngoại chơi đồ chơi xong là phải thu gọn lại, treo lên tường.

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 10

Nhấn để phóng to ảnh

Bé Na năm nay 5 tuổi, là con của con gái bà Ngọc. Sau khi ly hôn, bố mẹ bé đều có gia đình mới, bé về ở với ông bà ngoại. 'Lâu lâu mẹ nó về cho con được 100 ngàn đồng. Còn bố nó thì không thấy đến thăm con’, bà Ngọc nói buồn. Chia sẻ với PV, bà Ngọc cho biết, vợ chồng bà là hộ nghèo của UBND Phường 5. Mỗi tháng, bà được địa phương hỗ trợ hơn 1 triệu đồng tiền hộ nghèo. Các ngày lễ Tết, gia đình bà được hỗ trợ gạo, quà. 

Người phụ nữ Sài Gòn một thời sống giàu có, cuối đời ở căn nhà 2m2 - 11

Nhấn để phóng to ảnh

Đại diện UBND Phường 5 đã xác nhận việc gia đình bà Ngọc là hộ nghèo của phường. Phía ủy ban phường cũng cho biết, mới đây bà Ngọc đến xin được sửa nhà, lên gác cho căn nhà thoáng hơn nhưng không được, vì căn nhà không phải của bà.

Theo Tú Anh 

Vietnamnet


Người đi giải phóng miền Nam:

Mồ mả & xương xốt

< A >
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - Khi đất nước tôi không còn chiến tranh, mẹ già lên núi tìm xương con mình. Trịnh Công Sơn

Vài tháng trước, TTXVN và tất cả báo chí nhà nước đều long trọng đi tin “Kỷ Niệm 51 Năm Ngày Chiến Thắng Khe Sanh – 9/7/1968.” Vào thời điểm này, tôi còn là một thiếu niên ăn chưa no lo chưa tới nên không hiểu chi về chiến sự hay thời cuộc. Mãi cho tới bữa rồi, đọc thơ Phùng Cung mới biết được cái giá mà nhiều người dân Việt phải trả cho trận chiến Khe Sanh: 

Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Đèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh – Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không mồ…

Hai mươi lăm năm sau, sau khi cuộc chiến Nam/Bắc đã tàn, vẫn còn 300 ngàn “nắm xương không mồ” của những người lính miền Bắc Việt Nam rải rác trên đất nước này: “about 300,000 North Vietnamese soldiers killed in the war whose remains have not yet been located--and likely never will be. (Rajiv Chandrasekaran. “Vietnamese Families Seek Their MIAs.” Washington Post 3 April 2000: A01).

Tác giả bài báo thượng dẫn cũng trích lời của ông Trần Bạch Đằng – người đã từ trần vào năm 2007, và được truy tặng danh hiệu là Kẻ Sĩ Nam Bộ bằng một tác phẩm cùng tên – về sự kiện này: “Phải cân nhắc sự tốn phí trong việc tìm kiếm những người lính mất tích với nhu cầu chăm sóc cho những kẻ còn sống sau cuộc chiến… Có ích gì để đào bới xương cốt lên lên nếu chúng tôi không thể xác định được họ là ai?” (The cost of searching for missing soldiers must be weighed against the need to care for the survivors of the war … What good will it do to dig them out of the ground if we cannot determine who they are?" said Tran Bach Dang). 

Thái độ vô tâm, vô cảm hay vô ơn của kẻ sỹ Trần Bạch Đằng (nói riêng) và của Chính Phủ VN hiện hành (nói chung) đã tạo điều kiện lý tưởng để xứ sở này phát sinh ra những nhà ngoại cảm. Họ nhận được sự đồng cảm của tất cả mọi người nên cả nước cùng bước vào một một thời kỳ lên đồng không ngắn:

- Ngày 7 tháng 11 năm 2011, bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ Trưởng Bộ Thương Binh & Xã Hội, đã ký quyết định tặng bằng khen cho 38 nhà ngoại cảm “có nhiều người góp trong công tác tìm kiếm qui tập hài cốt liệt sỹ.”


Ngày 4 tháng 11 năm 2013, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng đã diễn ra Hội nghị Ban Chỉ đạo Quốc gia về tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tới dự và chỉ đạo Hội nghị có đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQVN, Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Chỉ đạo Quốc gia tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ.

Ngày 30 tháng 9 năm 2013, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định (1237) phê duyệt “Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo…” 

Sự nghiệp chính trị của ông Dũng, tiếc thay, không kéo dài được đến năm 2020. Số phận của cái Quyết Định 1237 cũng thế. Báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 16 tháng 10 năm 2015, buồn bã loan tin: 

“TAND tỉnh Quảng Trị tiếp tục thẩm vấn các bị cáo trong đường dây lừa đảo tìm hài cốt liệt sĩ do Nguyễn Văn Thúy (tức ‘cậu Thủy’) cầm đầu. Sau khi nghị án, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã công bố… ‘cậu Thủy’ Nguyễn Văn Thúy phải chấp hành hình phạt chung là tù chung thân cho hai tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và xâm phạm mồ mả hài cốt. Mẫn Thị Duyên (vợ Thúy) 25 năm tù, Mẫn Đức Phương (em vợ Thúy) 18 năm tù, Nguyễn Anh Chiều 5 năm tù, Nguyễn Trường Sơn 15 năm tù cùng về hai tội lừa đảo và xâm phạm mồ mả hài cốt. Nguyễn Văn Hoành 23 năm tù về 3 tội lừa đảo, xâm phạm mồ mả hài cốt và trộm cắp tài sản.”

Rõ ràng là cả nước đều nhập đồng tập thể (kể cả những giới chức lãnh đạo cao cấp nhất) nhưng đến khi “đồng off” thì chỉ có những nhà ngoại cảm bị bỏ tù thôi, với những tội danh rất nặng nề: “lừa đảo chiếm đoạt tài sản và xâm phạm mồ mả hài cốt và trộm cắp tài sản.” Nói cho khách quan thì họ cũng chả có “xâm phạm” hay “trộm cắp” gì ráo trọi mà chỉ có tội là dùng xương xúc vật giả làm hài cốt liệt sỹ để kiếm chút đỉnh tiền sài (chơi) thôi.

Thôi, thế cũng xong. Chuyện xương cốt giả đến đây coi như là chấm hết. Kế tiếp là chuyện mồ mả giả. Báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 3 tháng 12 năm 2019, ái ngại loan tin: “Tỉnh Bắc Kạn họp gấp về vụ 13 mộ liệt sĩ không có hài cốt…”

Blogger Trân Văn cho biết thêm nhiều tình tiết:

Phải mất 51 năm sau khi 13 thanh niên xung phong (TNXP) của C933 – N92 Thanh vận tử nạn tại đập Yên Minh (tọa lạc tại xã Thanh Vận, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn), thân nhân của họ mới được Sở Lao động – Thương binh – Xã hội (Sở LĐTBXH) tỉnh Bắc Kạn vời đến để thử ADN, nhằm xác định danh tính cho từng bộ hài cốt… Đáng nói hơn là khi khai quật, không ngôi mộ nào trong số này có hài cốt! Lòng mộ chỉ có những túi nylon đựng… đất và đá! 


Trước sự kiện vừa kể, Lợi Phan và nhiều thân hữu cùng buột miệng than: Chúng nó ăn cả hài cốt! Thi Kim Vang Massmann nhấn mạnh sự phẫn nộ khi liệt sĩ cũng bị… “làm thịt” và “ăn” không chừa cả xương. Loc Pham nhận định: Tạo lập mộ giả vốn là một kiểu kiếm tiền và gian – giả thì đã là “chuyện thường ngày” của “cán bộ”. 

Tương tự, trên facebook của Dương Sông Lam, sự kiện 13 mộ liệt sĩ chỉ chôn đất đá làm dậy lên những tiếng nguyền rủa vì chỉ có súc vật mới hành xử như thế. Một số người không đồng tình, theo họ, hành xử như thế còn tệ hơn cả cầm thú! Quoc Viet Hoang nhắc rằng, “ăn” cả xương liệt sĩ không phải là chuyện lạ, mới xảy ra lần đầu, ở Quảng Trị đã từng xảy ra chuyện dùng xương trâu, bò để làm giả hài cốt liệt sĩ kiếm tiền… 

Tôi thì e rằng những vị thức giả vừa nêu đều đã “bức xúc” hơi quá mức cần thiết. Trong một quốc gia mà Độc Lộc – Tự Do – Hạnh Phúc cũng toàn là của giả (cả) thì những nắm xương không mồ hay những nấm mồ không xương, thiết nghĩ, chả đáng chi để phải ầm ĩ cả. Chuyện nhỏ thôi mà!

13/12/2019


URL của bản tin này::http://www.vietnamville.ca/article.7648

© Vietnamville contact: admin@vietnamville.ca