Alexandre de Rhodes và chữ Quốc Ngữ
Bài phát biểu của GS Nguyễn Lý-Tưởng trong Đại Lễ Văn Hóa Tạ Ơn.
Kính thưa quý vị,
Trước hết, tôi xin cám ơn nhà truyền thông Quốc Nam và Ban Tổ Chức cho phép tôi được phát biểu về đề tài “Alexandre de Rhodes và chữ Quốc Ngữ” trước quý vị trong Hội Trường này, ngày hôm nay.
Đề tài của tôi trình bày có hai phần:
(1) Về cuộc đời hoạt động của Alexandre de Rhodes, người được xem là có công trong việc hình thành chữ Quốc Ngữ mà chúng ta sử dụng ngày hôm nay
(2) Tiến trình hình thành chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự la tinh…
Thời gian trinh bày trong vòng 15 phut nên nội dung chỉ giới hạn trong phạm vi Alexandre de Rhodes và chữ Quốc Ngữ (thời khai sinh) chứ không nói rộng ra về nhiều lãnh vực khác liên quan đến chữ quốc ngữ (trong phạm vi văn học cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20)
Kính thưa quý vị,
Trước khi giới thiệu phần tài liệu có liên quan đến hai vấn đề nêu trên, chúng tôi xin đặt câu hỏi: Chữ Quốc Ngữ là gì? Chúng ta hiểu “chữ Quốc Ngữ” như thế nào?
Thi sĩ Tản Đà, được xem là thi bá vào những năm đầu thế kỷ 20, đã hô hào người Việt Nam chúng ta phải học “Chữ Quốc Ngữ” và ông đã gọi Chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự la tinh mà ngày nay chúng ta đang sử dụng là “chữ nước ta” nghĩa là chữ của người Việt Nam chúng ta để phân biệt với chữ Hán là chữ của người Tàu (người Hoa) mà tổ tiên chúng ta hàng ngàn năm đã sử dụng. Tản Đà gọi chữ Quốc Ngữ hiện nay là “chữ nước ta”, là “chữ của người Việt Nam” và tất nhiên “chữ Hán” không phải là chữ của người Việt Nam, đó là chữ của người Hoa, người phương Bắc, người Tàu, mà ai cũng biết.
Vậy, trước khi có chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự la tinh mà chúng ta đang sử dụng thì tổ tiên chúng ta có một thứ chữ nào khác (không phải là chữ Hán) hay không?
Tôi xin trả lời dứt khoát là không có (hay nói cách khác là chúng ta chưa tìm ra được bằng chứng chắc chắn đã có một thứ chữ nào khác ngoài chữ Hán được gọi là “chữ nước ta”). Chữ Nôm xuất hiện thời nhà Trần là một thứ chữ được mượn từ chữ Hán, một thứ chữ do nhiều chữ Hán ghép lại, rất rắc rối và chưa được thống nhất. Muốn đọc được chữ Nôm thì phải học chữ Hán trước. Các triều đại Việt Nam đã dùng chữ Hán là văn tự chính thức để dạy cho dân, để thi cử, để viết sách vở, ghi chép lịch sử và văn tự có giá trị luật pháp (nghĩa là văn tự viết bằng chữ Hán mới có giá trị luật pháp: ví dụ viết một giấy vay nợ, viết một giấy bán nhà cửa, đất ruộng, bán trâu bò,v.v…đều phải viết bằng chữ Hán…Các công văn, giấy tờ, thông báo,v.v. nói chung là giấy tờ hành chánh từ vua quan phổ biến cho dân hay từ dân trình bày lên vua quan,v.v…đều viết bằng chữ Hán. Dân học chữ Hán, thi cử bằng chữ Hán…Nhà nước tuyển chọn nhân tài ra làm việc trong bộ máy hành chánh của quốc gia (xưa gọi là làm quan giúp dân, giúp nước) đều căn cứ theo trình độ chữ Hán của người đó.
Ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) là một nhà Nho, học chữ Hán, viết văn, làm thơ bằng chữ Hán, lều chõng đi thi, bài thi phải viết bằng chữ Hán…Khoa thi cuối cùng tại Miền Bắc vào những thập niên đầu của thế kỷ 20 , ông không đậu được cử nhân. Lúc đó phong trào học chữ quốc ngữ, nhà nước mở trường dạy chữ Quốc Ngữ, ông học chữ Quốc Ngữ (theo mẫu tự la tinh), ông bắt đầu viết văn, làm thơ bằng chữ Quốc Ngữ, (bút hiệu Tản Đà 1916) ông hô hào học chữ Quốc Ngữ. Người chịu khó học, chỉ vài tuần là đọc được; đọc được thì viết được, chữ gì cũng viết được, viết theo lối phiên âm, đồng âm mà khác nghĩa. Nhưng người Việt Nam chúng ta đều hiểu được hết. Nó khác với chữ Hán mà ông Tản Đà đã bỏ ra cả chục năm mới đọc được, viết được, hiểu được, vì mỗi chứ viết khác nhau, đồng âm mà dị nghĩa. Công phu học chữ Hán đến ngoài 20 tuổi mà đi thi không đậu. Bây giờ, ông học chữ Quốc Ngữ, thấy học quá nhanh, quá tiện lợi cho người Việt Nam chúng ta, nên ông hô hào:
“Chữ Quốc Ngữ,
Chữ Nước ta
Con cái nhà
Đều phải học…”
Kính thưa quý vị,
Vừa rồi, tôi đã nói về ý nghĩa chữ Quốc Ngữ theo định nghĩa của Ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu mà ai cũng đồng ý đó là chữ nước ta, chữ của người Việt Nam. Vậy ai là người đã đặt ra chữ Quốc Ngữ mà chúng ta đang sử dụng hiện nay?
I. Cuộc đời hoạt động của Alexandre de Rhodes:
Nhiều người cho rằng chính Alexandre e Rhodes là người đặt ra chữ Quốc Ngữ Việt Nam vì họ căn cứ vào hai tác phẩm đầu tiên xuất bản tại Roma vào năm 1651 tác giả là Alexandre de Rhodes: đó là cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La và cuốn Phép Giảng Tám Ngày Cho Kẻ Muốn Chịu Phép Rửa Tội Mà Vào Đạo Thánh Đức Chúa Trời.
Xin nhắc lại, trước Alexandre de Rhodes, chưa có tác giả nào viết thành sách vở bằng thứ tiếng Việt theo mẫu tự la tinh, do đó, người ta tin rằng Alexandre de Rhodes chính là người đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ Việt Nam, cũng có người tin rằng ông là người đầu tiên làm việc này. Trước khi đặt vấn đề có phải Alexandre de Rhodes là người đầu tiên đặt ra chữ Quốc Ngữ hay không? Trước tiên, xin hãy tìm hiểu về cuộc đời (hay cuộc đời hoạt động) của ông này…
Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon năm 1591, Avigon là lãnh thổ thuộc Giáo Hoàng, không phải là nước Pháp. Năm 1612, khoảng 20 tuổi, ông vào tu Dòng Jesuiste (tức dòng tên Đức Chúa Giêsu, sách vở tiếng Việt thường gọi là Dòng Tên). Năm 1619, từ Lisbonne ông lên đường đi đến xứ Đông Dương (Indochina), sau khi ghé nơi này, nơi khác, ông đến trụ sở Dòng Tên tại Macao năm 1623 và năm 1624, ông được sai đến xứ Đàng Trong (ở tại trụ sở Dòng Tên thuộc Hội An để học tiếng Việt). Khoảng 1626, ông theo bề trên là Linh Mục Pêro Marquez ra truyền giáo ở Đàng Ngoài, hoạt động được chừng 3,4 năm (1627-1630) thì bị chúa Trịnh trục xuất phải trở về Macao. Ôn sống ở Macao được 10 năm (1630-1640) vừa hoạt động truyền giáo, vừa nghiên cứu tiếng Việt. Sau đó, ông được gửi trở lại truyền giáo ở xứ Đàng Trong hoạt động trong vòng 5 năm (1640-1645) thì bị chúa Nguyễn trục xuất. Cuối năm 1645, ông lên tàu đi Âu Châu, đến Roma. Thời gian ở Roma, ông cho xuất bản hai cuốn sách tiếng Việt vào năm 1651 như đã nói trên. Từ 1652-1654, ông sống tại Pháp, sau đó ông theo đoàn truyền giáo đi Ba Tư, ngụ tại Ispahan và qua đời vào năm 1660, hiện còn ngôi mộ của ông tại đây.
Xin lưu ý một điều này, Alexandre de Rhodes sinh tại Avignon là vùng nói tiếng Pháp, nhưng chữ Quốc Ngữ thì lại sử dụng cách chuyển âm của tiếng Bồ Đào Nha, cách đọc 24 chữ cái tiếng Việt bây giờ là cách đọc của tiếng Bồ, không phải tiếng Pháp. Điều đó giúp cho chúng ta hiểu tiếng Việt (chữ Quốc Ngữ) là từ các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha. Alexandre de Rhodes vào tu tại Lisbonne là thủ đô của nước Bồ Đào Nha và đi theo các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha vào Việt Nam (Đàng Trong rồi Đàng Ngoài) vào những thập niên đầu của thế kỷ 17. Cuốn Từ Điển đầu tiên của ông là “Việt-Bồ-La” không dính dáng gì đến tiếng Pháp. Lúc đó, các nhà truyền giáo người Pháp chưa có mặt tại Việt Nam.
Trong sách “Les missionnaires portugais et les débuts de L’Eglise catholique au Viêt-nam” (Các nhà truyền giao Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo Hội Công giáo Việt Nam) do Tiến Sĩ Roland Jacques (một Linh Mục người Pháp sinh 1943 tại Lorraine, Pháp) xuất bản năm 2004, được dịch ra tiếng Việt mà tôi được hân hạnh là người giới thiệu sách này tại Trung Tâm Công Giáo VN giáo phận Orange…đã cho biết các chi tiết về cuộc đời hoạt động của Alexandre de Rhodes, như tôi vừa giới thiệu trên đây…Tác giả Roland Jacques đã cho biết khi mới đến Hội An năm 1624, Alexandre de Rhodes đã học tiếng Việt với một giáo sĩ tên là Di Pina, người Bồ Đào Nha. Di Pina sinh 1585 đến Việt Nam 1617 ở Hội An và Quy Nhơn, bị tai nạn chìm thuyền chết trên biển ngày 15-12-1625 khi mới 40 tuổi, là người rất giỏi tiếng Việt…
Đặt vấn đề: Có phải Alexandre de Rhodes là người đầu tiên đặt ra chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự La-tinh hay không? Xin thưa: mặc dù ông là tác giả hai tác phẩm tiếng Việt đầu tiên là cuốn Tự Điển…và cuốn sách “Phép Giảng Tám Ngày…” nhưng việc hình thành chữ Quốc Ngữ không phải là công trình của một cá nhân ông mà do nhiều người và đã trải qua một thời gian dài từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, khoảng 200 năm mới hoàn chỉnh như ngày hôm nay. Như chúng tôi đã nói ở trên: Linh Mục Di Pina (1685-1625) là người đã dạy cho Alexandre de Rhodes học tiếng Việt, tất nhiên chúng ta phải hiểu rộng ra rằng Di Pina cũng là người đã tham gia vào việc đặt ra chữ quốc ngữ… Ngoài ra còn có nhiều người Việt Nam khác vào thời đó đã cộng tác với các nhà truyền giáo người Bô Đào Nha, và Alaxandre de Rhodes…
II. Tiến trình hình thành chữ Quốc Ngữ theo mẫu tự latinh.
Do nhu cầu truyền giáo, các giáo sĩ phải tìm cách phiên âm tiếng Việt theo mẫu tự latinh để học tiếng Việt, để ghi chép tiếng Việt theo cách phiên âm của họ chứ không thể học thuộc lòng chữ Hán hay chữ Nôm (vì khó nhớ)…Sau khi đã có chữ Quốc ngữ tiếng Việt, họ in kinh sách bằng tiếng Việt (chữ Quốc Ngữ) và truyền bá chữ này cho người Việt (các Linh Mục, các tu sĩ người Việt và giáo dân) để học kinh, học giáo lý, thư từ liên lạc trong nội bộ người Công giáo với nhau. Giữa thế kỷ 19, có một người Việt Nam tên Nguyễn Văn Bỉnh quê ở Thanh Hóa, linh mục thuộc Dòng Tên, đã đến Roma yết kiến Đức Giáo Hoàng… Ông đã sống tại Lisbonne nước Bồ Đào Nha và đã viết lại một quyển sách hồi ký kể lại các hoạt động của ông từ khi còn ở Việt Nam cho đến khi qua làm việc tại Âu Châu. Ông viết bằng tiếng Việt thế kỷ 19 (chưa được hoàn chỉnh như tiếng Việt bây giờ). Khoảng 1965, Đại học Đà Lạt đã cho chụp hình và in lại sách này. Sau khi xứ Nam kỳ bị Pháp chiếm và hoàn tất việc tổ chức cai trị (1868), Pháp cho dạy chữ Quốc Ngữ tại các trường học và cho phát hành sách báo bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Các nhà trí thức Tây học như Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Huỳnh Tịnh Của (1834-1907),Trương Minh Ký (1855-1900).v.v. cho phát hành sách báo tiếng Việt, cổ võ học chữ quốc ngữ… Các nhà thờ Công giáo lập nhà in, in sách kinh, sách giáo lý, sách học tiếng Việt…Gia Định Báo (1865-1910) do Trương Vĩnh Ký phụ trách được xem là lâu đời nhất (sau 1865…) Văn chương tiếng Việt, chữ quốc ngữ thịnh hành trong Nam ảnh hưởng tới ngoài Bắc nhất là trong giới Công gíao. Sau Trương Vĩnh Ký phải kể đến nhà văn Hổ Biểu Chánh (1885-1958), vào những năm đầu thế kỷ 20 nổi tiếng về viết tiểu thuyết tiếng Việt tại Nam Kỳ. Năm 1915, sau khi vua Việt Nam tuyên bố bãi bỏ các kỳ thi bằng chữ Hán và chủ trương dạy chữ quốc ngữ trong các trường học tại miền Trung và miền Bắc, lúc đó phong trào viết văn viết báo và truyền bá chữ quốc ngữ mới thịnh hành tại Hà Nội và các tỉnh Miền Bắc. Các nhà Nho chủ trương duy tân lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) vào đầu thế kỷ 20 và các nhà Tây học như Nguyễn Văn Vĩnh (Đông Dương Tạp Chí 1913-1919), Phạm Quỳnh (Nam Phong Tạp Chí 1917-1934) v.v. cho xuất bản các sách, báo tiếng Việt …lúc bấy giờ dân Bắc Kỳ, Trung Kỳ mới chịu bỏ chữ Hán qua học chữ quốc ngữ…Khoảng 1930, nhóm Tự Lực Văn Đoàn (1930-1945) ra đời do Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng,v.v…với lối văn gọn gàng, sáng sủa đã giúp cho tiếng Việt thêm phong phú…So với xứ Nam Kỳ thì phong trào học chữ quốc ngữ tại Miền Bắc và Miền Trung đã đi sau Miền Nam khoảng 50 năm. Sau năm 1945, phong trào học tiếng Việt, phong trào bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ , phổ biến từ Nam chí Bắc. Đặc biệt sau, 1954, tại miền Nam, báo chí, sách vở tiếng Việt phát triển rầm rộ… Chỉ trong vòng một thế kỷ sử dụng chữ quốc ngữ mà người Việt Nam bây giờ đã có một kho tàng văn học tiếng Việt gấp trăm, gấp ngàn lần sách vở viết bằng chữ Hán của cả ngàn năm từ thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn để lại.
Sau 1975, tại hải ngoại cũng có phong trào học chữ quốc ngữ, bảo vệ tiếng Việt, xuất bản sách báo tiếng Việt…đã tạo nên một nên văn học Việt Nam hải ngoại…
Từ giữa thế kỷ thứ 19 trở về trước, Việt Nam cũng như Triều Tiên, Nhật Bản đều dùng chữ Hán để giao thiệp, ghi chép sử sách, học hành, thi cử,v.v…Từ năm 1868, khi Minh Trị Thiên Hoàng lên lãnh đạo nước Nhật, bắt đầu duy tân, cải cách thì mới đặt ra tiếng Nhật để thay thế chữ Hán; nước Triều Tiên (hay Cao Ly) bây giờ là Hàn quốc…cũng vào hậu bán thế kỷ 19 mới có chữ quốc ngữ của mình. Tại nước Tàu (Trung Hoa) mãi đến sau cách mạng Tân Hợi 1911 mới sử dụng bạch thoại, quan thoại hay tiếng phổ thông là tiếng nói của người Bắc Kinh và văn mới (tức văn bạch thoại là ngôn ngữ của giới bình dân) thay thế cho cổ văn (Hán tự) là văn chương của giới thượng lưu trí thức …Chữ Hán vốn là chữ của người Hoa ở Trung nguyên được Tần Thủy Hoàng sử dụng để thống nhất văn tự cho lục quốc sau khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa. Cho đến bây giờ, người Hoa mỗi vùng vẫn nói tiếng khác nhau và đọc chữ Hán khác nhau, do đó, sau cách mạng Tân Hợi (1911) thời Tôn Dật Tiên và Tưởng Giới Thạch ra lệnh dạy tiếng Bắc Kinh cho cả nước gọi là tiếng phổ thông hay tiếng quan thoại. Người Việt Nam cũng học chữ Hán và cách đọc chữ Hán của người Việt Nam khác với cách đọc hay nói của người Hoa. Do đó, trong ngôn ngữ Việt Nam có nhiều chữ Hán (chúng ta thường gọi là tiếng Hán Việt vì nó đã thành tiếng Việt như quốc gia, xã hội, gia đình, tổ quốc, dân tộc…là tiếng Việt chúng ta nói thường ngày…) Học chữ Hán rất khó, chữ Nôm lại càng khó hơn…nhưng học chữ quốc ngữ thì quá dễ, một vài tuần là đọc được, viết được…Thời Mao Trạch Đông, đặt ra “đơn giản tự” phổ biến cho toàn nước Tàu…Đơn giản tự là chữ Hán viết tắt, ít nét hơn, dễ học hơn chữ Hán…Nhưng người học đơn giản tự rồi thì không đọc được cả triệu quyển sách văn chương, triết học, khoa học, lịch sử của người xưa để lại (viết bằng chữ Hán). Tiếng phổ thông là tiếng nói của người Hoa bây giờ khác với văn chữ Hán ngày xưa gọi là cổ văn. Trình độ tiểu học, trung học không thể hiểu được cổ văn (văn chương chữ Hán xưa)…Do đó, tiếng Tàu, chữ Tàu còn nhiều điều rắc rối. So với chữ quốc ngữ của Việt Nam chúng ta, ai học cũng được, nói sao thì viết như vậy…Nhờ chữ quốc ngữ, chúng ta học qua tiếng Anh, tiếng Pháp dễ dàng (vì cùng mẫu tự latinh). Nhờ chữ quốc ngữ mà dân tộc Việt Nam chúng ta tiến bộ rất nhanh, từ Nam chí Bắc thông tin với nhau quá dễ dàng chứ không rắc rối như các dân tộc Á Đông. Tại Á Châu, chỉ có người Việt Nam chúng ta có chữ viết theo mẫu tự latinh, người Tàu, người Nhật, ngươi Hàn, người Thái, Lào, Kampuchia, Indonesia…đều dùng chữ riêng của họ, rất khó đọc, rất khó học.
Kết luận: Chúng ta cám ơn người đặt ra chữ Quốc Ngữ, chúng ta cám ơn các nhà truyền giáo với các bệnh viện, trường học, trại mồ côi và những công tác bác ái, từ thiện, rao truyền tình bác ái, huynh đệ trên đất nước chúng ta. Người Pháp xâm lăng chúng ta, cai trị chúng ta… nhưng quân xâm lăng khác với các nhà truyền giáo. Cùng đi trên một chuyến tàu đến nước ta, nhưng mỗi người một mục đích khác nhau. Chúng ta không vì thù ghét quân xâm lăng, quân cướp nước mà thù ghét luôn những nhà truyền giáo, những người đã tặng cho dân tộc chúng ta Chữ Quốc Ngữ…
Bổ túc: Huỳnh Tịnh Của (1834-1897) là tác giả cuốn Đại Nam Quốc Âm Tự Vị xuất bản tại Saigon (1895-1896) và Giám Mục Taberd có xuất bản Tự Điển tên là Nam Việt – Dương Hiệp Tự Vị (tiếng La Tinh dịch ra tiếng Việt viết bằng chữ Nôm và chữ Quốc ngữ theo mẫu tự Latinh)… Giám Mục Jean Louis Taberd (1794-1840) làm Giám Mục tại Saigon (Nam Việt) từ 1830-1840) sách này dựa trên tài liệu của Giám Mục Pigneau de Behaine (thường gọi là Bá Đa Lộc) biên soạn từ 1773 để lại. Giám Mục Jean Louis Taberd là người hoàn tất khi còn ở bên Ấn Độ… Sách này ra đời sau Tự Điền Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes… Các nhà làm tự điển sau này (thế kỷ 19, 20) đều tham khảo sách của Taberd.
NGUYỄN LÝ TƯỞNG (Westminster CA, Thứ 7 Ngày 7 Tháng 7 Năm 2018)
Trở Lại Vấn Đề: Alexandre de Rhôdes và Chữ Quốc Ngữ
(Riêng tặng tập thể Thánh Gia Ninh Cường - Bùi Chu)
Mấy điều sơ lược về lịch sử chữ viết và nguồn gốc chữ quốc ngữ
Các nhà nhân chủng học cho biết loài người đứng thẳng (homo erectus) đã có mặt trên trái đất từ 2 triệu năm trước. Loài người khôn ngoan (homo sapiens) mới xuất hiện 160 ngàn năm và tiến hóa thành loài người chúng ta hiện đại. Chắc chắn là loài người khôn ngoan (homo sapiens) đã biết dùng tiếng nói để thông tin với nhau từ nhiều chục ngàn năm trước, nhưng chữ viết của loài người thì chỉ mới được phát minh cách đây hơn 5000 năm mà thôi.
Theo các nhà khảo cổ thì chữ viết đầu tiên của loài người là chữ viết của dân tộc Sumer ở Babylon (phía nam Iraq ngày nay) được phát minh năm 3150 TCN , tức cách đây 5153 năm. Thoạt đầu, người Sumerians phát minh ra loại chữ tượng hình (pictographic / giống như chữ Hán) nhưng họ chỉ dùng loại chữ này một thời gian ngắn rồi bỏ đi vì loại chữ này bất tiện, khó nhớ, học chữ nào biết chữ đó nên mất rất nhiều thời gian học đọc và học viết. Họ sáng chế ra 18 ký hiệu thay cho 18 âm căn bản, rồi dùng các ký hiệu đó để ghi âm cho mọi tiếng khác. Các ký hiệu này trông giống như nêm cối (cunei) nên họ gọi loại chữ này là cuneiform (chữ viết hình nêm cối). Sự xuất hiện loại chữ Cuneiform năm 3150 TCN trở thành một dấu mốc quan trọng của lịch sử nhân loại, bởi vì tất cả những gì xảy ra trước năm 3150 TCN đều được gọi là thời tiền sử (prehistoric). Những người viết sử Sumerians là những người viết sử đầu tiên trên thế giới. Các tu sĩ Sumerians thu thập các chuyện thần thoại dân gian, viết thành sách, trong đó có các chuyện về Vườn Địa Đàng Gan-Eden (Archeology in the Land of the Bible – Abraham Negrey Shoken Books, NY 1977). .Trong nhiều thế kỷ trước Công nguyên, chữ Cuneiform và ngôn ngữ Sumerian trở thành ngôn ngữ giao dịch trong toàn vùng Trung Đông và Cận Đông, nền văn hóa của dân tộc Sumer được nhiều dân tộc quanh vùng theo Điển hình là đạo thờ bò El (Elohim) của Abraham (sinh trưởng tại UR thuộc Babylon) trở nên một tôn giáo phổ biến ở Do Thái và các nước Ả Rập. Câu chuyện thần thoại Vườn Địa Đàng của người Sumer trở thành rường cột của đạo Kitô và từ đó phát sinh ra lý thuyết về Tội Tổ Tông, về ơn cứu chuộc của chúa Kitô, về tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, vân vân và vân vân…Chuyện thần thoại Tamuz của Babylon là cha đẻ ra ý niệm về Chúa Cứu Thế của đạo Kitô (Babylon Mystery Religion – Ancient and Modern – Ralph Woodrow Evangelistic Association – Riverside, CA). Sự phát minh ra chữ viết là một biến cố vô cùng quan trọng trong lịch sử văn hóa nhân loại. Chữ viết là phương tiện chuyển tải phổ biến tư tường tới mọi người và lưu truyền tư tưởng qua nhiều ngàn năm. Nếu không có chữ viết, loài người sẽ không có lịch sử, không có văn hóa, không có triết học, khoa học, không có tiến bộ và thế giới ngày nay hoàn toàn khác ! Hơn 14 thế kỷ sau, đến đời nhà Thang (1700 TCN), người Trung Hoa phát minh ra chữ viết tượng hình, hình tròn, sau đó được đổi sang hình vuông và được hoàn chỉnh (thành chữ viết thông dụng ngày nay) trong thời nhà Hán (206 TCN – 220 sau CN), do đó được gọi là chữ Hán (Hán tự)
Năm 1600 TCN, người Hy Lạp phát minh ra một hệ thống ký hiệu ghi âm (a phonetic system of writing). Một thế kỳ sau, vào năm 1500 TCN, người Latinh (tức người La Mả cổ) mô phỏng ký hiệu ghi âm của Hy Lạp để sáng chế ra mẫu tự A,B,C,D,… (ta gọi là mẫu tự la tinh).
Những người đầu tiên có ý nghĩ la-tinh-hóa ngôn ngữ Á châu (gồm có tiếng Nhật, tiếng Tàu và tiếng Việt) là các tu sỉ dòng Tên (Jesuists) Bồ Đào Nha giảng đạo tại Á châu trong thề kỷ 17. Đây là một sự thật lịch sử hiển nhiên mà hầu như các nhà nghiên cứu văn hóa và giáo hội Công giáo Việt Nam, cũng như các giới chức thực dân Pháp (trước 1945) đã vô tình hay cố ý bỏ quên để chỉ đề cao một mình Alexandre de Rhôde như vị thánh tổ duy nhất đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ.
Ngày nay, nếu chúng ta chịu khó sưu tầm các tài liệu còn lưu trữ tại văn khố Dòng Tên tại La Mã, Madrid, Lisbone (“Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ” – trang 21 của Huỳnh Ái Tông – so sánh các bản lưu trữ mới thấy Alexandre de Rhôde chưa định chuẩn được cách phiên âm tiếng Việt. Các tài liệu khác của các bậc thầy Bồ Đào Nha của Alexandre de Rhôde như Christoforo Baris, Jao Ruiz, Gaspa Louis, Antonio de Fontes, Gasparo d’Amiral mới thấy phiên âm tiếng Việt của họ đã định chuẩn như chúng ta viết ngày nay – www.saomai.org).
Như vậy, việc tôn vinh Alexandre de Rhôde lên tận mây xanh hoàn toàn là một chuyện thần thoại hoang đường. Chữ quốc ngữ Việt Nam cũng không phải là chữ duy nhất “la tinh hóa” tại Á Châu ngày nay. Chữ Mã Lai và Indonesia (Nam Dương) cũng được La Tinh hóa trong thời kỳ thuộc địa. Tiếng Tagalog là một trong 168 ngôn ngữ của người Phi Luật Tân đã được la-tinh-hóa. Điều đáng chú ý là các chữ quốc ngữ la-tinh-hóa của Mã Lai, Nam Dương và Tagalog đều không có dấu rắc rối như chữ quốc ngữ của ta.
Vấn đề chữ quốc ngữ Việt Nam, các nhà văn hóa Việt Nam thực sự chưa thống nhất quan điểm xác nhận ai là tác giả đã phát minh ra nó. Ngoài ra còn một vấn đề khác không kém quan trọng, đó là: chữ quốc ngữ là một món quà tặng của ngoại nhân cho dân tộc Việt Nam hay chỉ là một chiến lợi phẩm do ta tịch thu của địch ?
Tôi đã viết bài bày tỏ ý kiến của tôi về những vấn đề trên dưới tựa đề “Dòng Tên, thánh Phanxico Xavier, cố đạo Đắc Lộ và chữ Quốc Ngữ”, tức chương 2, phần III trong cuốn “Công Giáo - Huyền Thoại và Tội Ác” của Charlie Nguyễn – Giao Điểm xuất bản Hè 2001 (trang 297-320). Phần cuối của bài viết này (từ đoạn viết về Phanxico Xavier) đã được đăng trong cuốn “Alexandre de Rhôde, người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam và chữ Quốc Ngữ” gồm 9 tác giả - Giao Điểm xuất bản năm 1998 (trang 160-166).
Tôi thiết nghĩ những điều trình bày trong các bài viết trên đã biểu lộ trọn vẹn quan điểm của tôi về chữ quốc ngữ, nên tôi tự thấy không còn điều gì để nói thêm về vấn đề này nữa. Tuy nhiên, gần đây có hai sự việc vừa mới xuất hiện trong giới gọi là “trí thức” Việt Nam làm tôi phải buộc lòng trở lại với vấn đề “Alexandre de Rhôde và chữ Quốc Ngữ”:
I.- Vấn đề thứ Nhất : Phải chăng các giáo sĩ thừa sai và các học sĩ Tống Nho là những người có công lớn với văn hóa Việt Nam ?
Houston, thành thố lớn thứ tư tại Hoa Kỳ, với trên 100 ngàn người Việt định cư, ngày 15 tháng 6 năm 2003 vừa qua, tại nhà hàng Ocean Palace, một tổ chức mệnh danh là “Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam – Houston” long trọng tổ chức buổi lễ “VINH QUI” theo nghi lễ cổ truyền Việt Nam, để vinh danh 58 sinh viên nam nữ Việt Nam cư ngụ tại Houston đã tốt nghiệp trong năm 2003 tại các trường đại học Mỹ ( gồm đủ các phân khoa các ngành và thuộc các trường đại học ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ).
Điểm danh 58 tân khoa có hình in trên từng trang của tập kỷ yếu “VINH QUI – Vietnamese Traditional Ceremony Honoring Graduates 2003” (dày 114 trang khổ lớn, in trên giấy láng đẹp ngày 15-6-2003), tôi nhận thấy phần lớn là những thanh niên nam nữ trẻ tuổi, nét mặt khôi ngô rạng rỡ tươi vui với tinh thần lạc quan hướng về tương lai. Phần lớn họ đã tốt nghiệp thành bác sĩ y khoa, tiến sĩ dược khoa, kỹ sư các ngành, tiến sĩ âm nhạc. tiến sĩ sinh vật học, tiến sĩ sử học,… Nhiều người khác đậu bằng BBS, BBA về quản trị tài chánh, ngân hàng, v.v…
Nói chung, họ là những người đáng được cộng đồng chúng ta vinh danh. Tuy nhiên, trong số họ có một tên bất xứng lộn sòng không đáng vinh danh chút nào, đó là tên linh mục Đỗ Văn Lực, tốt nghiệp tiến sĩ thần học (PhD of Theology – 2003 - tại trường Houston Graduate School of Theology).
Tên Đỗ Văn Lực hiện đang hành nghề linh mục tại giáo xứ Đức Mẹ La Vang tại Houston. Thần học Công Giáo một môn học đáng khinh bỉ dựa trên một thần thuyết loạn luân cực kỳ ngu xuẩn, phản khoa học. Vậy việc vinh danh tên linh mục “tiến sĩ thần học” Đỗ Văn Lực thuộc giáo xứ La Vang trong lễ Vinh Qui ngày 15-6-2003 vừa qua của TTVHVN-Houston phải được coi là một sự lầm lẫn đáng tiếc. Đó là một vết đen văn hóa của cái tổ chức tự xưng là TTVHVN-Houston, nhưng thật sự nó đang nhằm phá hoại văn hóa Việt Nam.
Hành vi phá hoại văn hóa Việt Nam thứ hai là thuyết trình viên của TTVHVN-Houston đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong buổi lễ là: “Các giáo sĩ thừa sai và các học sĩ Nho học là những người có công với văn hóa Việt Nam !!!”
A.- Các giáo sĩ thừa sai là ai ? TTVHVN-Houston hết lời ca ngợi những giáo sĩ thừa sai dã sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Thật sự qúi vị đã nghiên cứu về chữ quốc ngữ rất phiến diện. Qúi vị đã không suy xét rốt ráo về tội ác của bọn giáo sĩ thừa sai là phá hủy văn hóa cổ truyền Việt Nam để thay bằng văn hóa Công giáo độc tôn. Linh mục Trần Thái Đỉnh đã đưa ra một nhận định rất sáng suốt như sau: “Tiêu diệt các tôn giáo khác để tôn giáo mình độc trị, tiêu diệt văn hóa bản địa cho văn hóa Công giáo độc diễn, tiêu diệt sinh lực của các dân tộc chậm tiến để các thế lực đế quốc thực dân xâm lăng. Đó là truyền thống của Vatican” (Xin đọc “Cái nhìn về Phật Giáo trong Phép Giảng Tám Ngày” – Kitô giáo từ thực chất đến huyền thoại - nhiều tác giả, nxb Văn Hóa – USA 1996)
Nghiên cứu lịch sử thế giới, học giả Mac Kher đã viết : “Sự tiến tới của Kitô giáo tại Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và phần lớn Phi Châu luôn luôn dẫn tới sự tiêu diệt hoàn toàn các tôn giáo đa thần và các nền văn hóa tiền-kitô” (The advent of Christianity in Europe, America, Australia and large parts of Africa always led to the elimination of the pre-Christian polytheistic religions and cultures)
Bọn truyền giáo Tây Ba Nha là thủ phạm tiêu diệt các nền văn hóa Aztec, Inca của người Da Đỏ tại Mỹ Châu trong thế kỷ 16 và 17.
Tội ác lớn nhất về văn hóa của giáo hội Công giáo La Mã là đã hủy diệt toàn bộ các sách khoa học, triết học, toán học rất tiến bộ của Hy Lạp trong các thế kỷ 3~5 khiến cho nền văn minh của nhân loại bị lùi lại 10 thế kỷ (Deceptions and Myths of the Bible – by Lloyd Graham – A Citadel Press Book 1991 - pp. 294, 448, 450).
Riêng đối với lịch sử Việt Nam, Alexandre de Rhôde phải được coi là kẻ thù số một vì chính y là kẻ đầu tiên có sáng kiến lập ra hội Thừa Sai Paris và cũng là người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam. Sử gia Pháp là ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, đã đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương – pages 16-17. (“Sự Du Nhập đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19” của giáo sư Nguyễn Văn Kiệm - Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam – Hà Nội 2000 – trang 123). Phê bình về Alexandre de Rhôde và các giáo sĩ thừa sai, giáo sư Kiệm (sách dẫn chiếu, trang 300-301) viết: “Các giáo sĩ thừa sai, trong đó có Alexandre de Rhôde, dẵ gây nên một cú sốc lớn đối với đời sống tâm linh và văn hóa của dân tộc ta… làm băng hoại nền tảng của cộng đồng. Họ mang mặc cảm tự cao cho rằng Cơ Đốc giáo là tôn giáo hoàn vũ, cao siêu hơn bầt cứ tôn giáo nào khác …. Do đó, họ coi các tôn giáo truyền thống bản địa đều là thấp kém, man muội cần phải xóa sạch để thay thế bằng Cơ Đốc giáo. Sự cấm đạo của nhà cầm quyền Việt Nam và tâm lý bất hòa giữa lương giáo trong dân chúng còn kéo dài đến ngày nay chính là những phản ứng tất nhiên chống lại sự xúc phạm đó và đồng thời là một hành động tự vệ chính đáng của một dân tộc đã có một nền văn hóa định hình và một ý thức tự tôn dân tộc cao.
Trên đây chỉ là mấy nét đại cương về tội ác của bọn giáo sĩ Tây phương đối với dân tộc Việt Nam nói chung, và đối với văn hóa của dân tộc ta nói riêng. Xin đọc thêm tác phẩm “Alexandre de Rhôde, người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam và chữ Quốc Ngữ” 9 tác giả - Gia Điểm xuất bản 1998 – và bài viết “Hồ Sơ Tội Ác của hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19” của Charlie Nguyễn - tháng 8, 2003 (www.giaodiem.com).
B.- Các Học Sĩ là ai ? Học sĩ là những người đỗ đạt những bằng cấp Hán học ngày xưa tại nước ta, thịnh hành từ đời Hậu Lê (1428-1527). Kể tử thời Hậu Lê, chính sách của triều đình Việt Nam là loại bỏ tinh thần “tam giáo” để chỉ đề cao vai trò độc tôn của Nho giáo và Hán học mà thôi. Do chính sách đó, xã hội Việt Nam xuất hiện một giai cấp trí thức Hán học được gọi là Học sĩ. Họ trở thành những phần tử trí thức với tinh thần vọng ngoại, luôn luôn coi các bậc thầy Trung Quốc là những khuôn vàng thước ngọc cho mọi vấn đề trong cuốc sống của họ. Từ tinh thần vọng ngoại, họ rất dễ dàng trở thành những kẻ “ỷ ngoại”, thích dựa vào sức mạnh của ngoại bang và cuối cùng họ đã đi theo giặc phản bội tổ quốc (trường hợp Lê Chiêu Thống). Chính sách sai lầm về văn hóa của thời Hậu Lê đã mau chóng đưa dân tộc ta đến chỗ suy tàn. Đó chính là quốc nạn “Trịnh Nguyễn phân tranh” kéo dài 259 năm (1527-1786) đưa đất nước đến gần thảm họa diệt vong với bao cảnh điêu linh loạn lạc, với núi xương sông máu của thảm cảnh nồi da sáo thịt.
Giới học sĩ Tống nho tiếp tục là một giai cấp trí thức rường cột của các triều đình nhà Nguyễn. Chế độ độc tài văn hóa và tư tưởng giáo điều gò bó của tầng lớp học sĩ thống trị xã hội Việt Nam từ thời Gia Long, qua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cho đến Bảo Đại. Chính sách này đã tạo ra những bọn “học sĩ bán nước” như cha con Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm. Họ đều là những quan đại thần của nhà Nguyễn rất nặng đầu óc Tống nho cổ hủ, lại cộng thêm tinh thần giáo điều độc tôn của Công giáo thời Trung Cổ. Cho nên chính sách của Diệm (1954-1963) là chính sách độc tài, phi nhân và phi dân tộc.
Tinh thần học sĩ Tống Nho là tinh thần nô lệ tư tưởng ngoại lai. Từ “vọng ngoại” đến “sợ ngoại” và cuối cùng là đem mạng sống toàn dân trao cho ngoại bang. Ngày 18-12-1960, Hội đồng Giám mục Việt Nam và toàn thể chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Ngô Đình Diệm cầm đầu đã long trọng tổ chức Lễ “Dâng Tổ Quốc Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Mẹ”, thực chất là dâng tổ quốc Việt Nam cho Vatican, con bạch tuộc của chủ nghĩa Đế Quốc Tinh Thần. Một việc làm thật ngu xuẩn của nhà Ngô và Hội đồng Giám mục Việt Nam, mặc dầu họ biết rõ là hơn 90% dân chúng không theo tôn giáo của họ.
Ngày nay, ông Nguyễn Trần Qúi, tổng thư ký và nhóm chủ trương “Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam” (gồm 13 người tại Houston) đã lưu manh núp dưới danh nghĩa Văn Hóa Việt Nam để phá hoại Văn Hóa Việt Nam bằng cách đầu độc tinh thần giới trẻ Việt Nam trong buổi lễ Vinh Qui vừa qua bằng cách gieo vào đầu óc họ cái ý tưởng sai lầm nguy hiểm: “Giáo sĩ thừa sai và học sĩ Tống Nho là những người có công với văn hóa Việt Nam”. Điều đáng buồn là trong danh sách Ban Cố Vấn của TTVHVN-Houston có tên: bác sĩ Hoàng Xuân Chỉnh, cựu giáo sư Đại Học Y Khoa Saigon và Huế; giáo sư Mai Văn Lễ, cựu giáo sư Đại Học Luật Khoa Saigon và Huế; nhà văn Doãn Quốc Sỹ, cựu giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon.
Qúi vị đều là những khuôn mặt văn hóa nổi tiếng tại Việt Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau này. Nhưng điều đáng tiếc là qúi vị đã vì cả nể nên đã bị đám học trò bất lương lợi dụng danh nghĩa qúi vị và đem qúi vị ra làm bình phong che đậy hành động bất chính của chúng.
Tôi cũng tự hỏi: Phải chăng ông Tổng Thư Ký Nguyễn Trần Qúi và đa số trong thành phần của nhóm chủ trương là những tín đồ Công giáo cuồng tín … nên mới có những hành động phá hoại văn hóa Việt Nam một cách mù quáng như vậy. Thật đáng tiếc !
II.- Vấn đề kế tiếp : Phải chăng chữ Quốc Ngữ là sự đóng góp vô cùng lớn lao của Giáo hội Công giáo Việt Nam cho dân tộc Việt Nam và chúng ta phải biết ơn GHCGVN là người đã sáng tạo ra nó ?
Trong “Thánh Gia Bản Tin” số 41 và trên trang nhà của Tập Thể Thánh Gia (www.angelfire.com/rnb/thanhgia) có đăng bài “Cảm Ơn Chữ Quốc Ngữ” của một thành viên Thánh Gia là anh Nguyễn Dương An ở Việt Nam. Nguyên văn như sau :
Cảm ơn chữ Quốc Ngữ !
Tôi đã đọc nhiều tài liệu chống đối và bài bác Giáo Hội Công Giáo VN, và gần đây, tôi cũng đọc được những bài như vậy trên trang web của Giao Ðiểm. Theo các tác giả đó, Giáo Hội Công Giáo VN không đem lại cho dân tộc VN một lợi ích gì, ngược lại, còn làm hại cho nền văn hóa, cho phong tục, cho đời sống xã hội của dân tộc VN, tóm lại, chỉ làm hại mà thôi..
Có một điều làm tôi rất ngạc nhiên : tất cả những bài đó đều viết bằng chữ Quốc Ngữ, là thứ chữ do một linh mục Công Giáo sáng lập từ mẫu tự Latin. Chính nhờ có thứ chữ Quốc Ngũ này mà những tác giả đó có thể viết bài chống đối GHCGVN, cũng như dùng chữ Quốc Ngữ này để truyền bá tư tưởng của mình đến cho đồng bào VN. Những tác giả này đang tận dụng một trong những ích lợi lớn lao mà GHCGVN đem lại cho dân tộc VN. Thế mà họ dám lớn tiếng phủ nhận sự đóng góp của GHCGVN cho dân tộc VN !!! Phải chăng những tác giả này không biết nguồn gốc của chữ Quốc Ngữ ? Do đó, họ đã tự mâu thuẫn với họ. Nếu đúng như vậy thì kiến thức của họ còn non dại quá ! Mỉa mai thay !
Mỗi khi anh viết một chữ Quốc Ngữ là anh đã nhắc lại sự đóng góp vô cùng quý báu của GHCGVN cho dân tộc VN, anh không biết điều đó sao ?
Nếu muốn phủ nhận những đóng góp của GHCGVN cho dân tộc VN thì các tác giả đó đừng dùng chữ Quốc Ngữ nữa, hãy dùng một thứ chữ khác. Bắt chước các vua nhà Nguyễn, các chiếu chỉ cấm Ðạo đều được viết bằng chữ Hán (cũng gọi là chữ Nho), không có cái nào viết bằng chữ Quốc Ngữ ! Có làm được như vậy không ? Tôi mong chờ sự “hiểu biết” một cách hợp lý của các tác giả đó !
Nguyễn Dương An
Chúng ta thường nói “cám ơn Trời Phật”, “cám ơn Chúa”, hoặc cám ơn người này người khác, chứ không bao giờ lại nói cám ơn một vật vô tri vô giác như “cám ơn chữ Quốc Ngữ” ! Đáng lý phải nói là cám ơn người đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ thì mới có ý nghĩa.
Theo Nguyễn Dương An thì chữ Quốc Ngữ là thứ chữ do một một linh mục Công giáo sáng lập từ mẫu tự la-tinh. Hẳn ý bạn muốn nói đến linh mục Alexandre de Rhôde là người đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ. Nhưng rõ ràng Alaxandre de Rhôde là một người Pháp, chứ có phải là một người Công giáo Việt Nam đâu, mà anh dám nói chữ Quốc Ngữ là công lao của Giáo hội Công giáo Việt Nam đóng góp cho dân tộc Việt Nam ?
III.- Chữ Quốc Ngữ đã được sáng tạo trong khuôn khổ chiến lược xâm lăng Á Châu của Bồ Đào Nha trong thế kỷ 17.
Từ thế kỷ 15, kỹ nghệ đóng tầu của Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã đạt được nhiều tiến bộ mới. Nhờ có súng hỏa mai và kỹ thuật hàng hải, nhiều nhà thám hiểm Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã thực hiện được những cuộc viễn du làm thay đổi lịch sử nhân loại:
1.- Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ năm 1492
2.- Vasco de Gama là người đầu tiên vượt mũi Hảo Vọng ở cực Nam châu Phi tới Ấn Độ năm 1497.
3.- Alvarez Cavral vượt qua Đại Tây Dương tìm ra Brazil năm 1500.
4. Alfonso de Albuquerque vượt qua Ấn Độ Dương năm 1503, chiếm tỉnh Goa của Ấn năm 1510, chiếm Malacca năm 1511 để mở đường cho Bồ Đào Nha tiến vào Trung Quốc và Nhật Bản. Chính sự kiện này đã làm nảy sinh tham vọng của Bồ Đào Nha là xâm lăng toàn bộ Á Châu.
Chiến lược của Bồ Đào Nha trong thế kỷ 16 là trước hết phải chiếm Trung Hoa và Nhật Bản làm thuộc địa, đồng thời biến hai nước này thành hai nước Công giáo, để từ đó sẽ chinh phục toàn Á Châu theo thế cờ domino. Do đó, vào cuối năm 1511, hạm đội Bồ Đào Nha đã rời Malacca tiến lên phía Bắc gần Macao để yểm trợ cho các nhà truyền giáo thuộc dòng Tên Bồ Đào Nha đang hoạt động tại Nhật và Trung Quốc. Tuy nhiên, chiến lược xâm lăng và truyền đạo của Bồ Đào Nha tại Á Châu trong thế kỷ 16 và 17 đã không thành công vì không có một ông vua Nhật hay Tàu nào chịu theo đạo cả. Năm 1638, người Nhật đã thẳng tay tàn sát một lúc 37000 giáo dân tại Nagasaki và đánh đuổi người Bồ Đào Nha ra khỏi nước Nhật. Mọi ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại Nhật đến đây là chấm dứt.
Như chúng ta đã biết, từ giữa thế kỷ 15, hai nước Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha đã dẫn đầu các cuộc thám hiểm đất mới để xâm chiếm thuộc địa và truyền đạo. Do các tranh chấp về đất đai và quyền lợi, Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha có thể trở thành hai quốc gia thù địch. Do đó hai nước đã thỏa thuận với nhau đưa vụ tranh chấp này ra trước toà Thánh Vatican để giáo hoàng Alexander VI phân xử. Do sắc chỉ Inter Coetera năm 1493, giáo hoàng Alexander VI chia thế giới làm hai phần qua đường ranh tưởng tượng chạy từ Bắc cực xuống Nam cực chạy qua quần đảo Acores. Phía Tây của đường ranh này thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo của Tây Ban Nha. Phía Đông đường ranh này bao gồm toàn vùng Á Châu thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo của Bồ Đào Nha. Trong thực tế, kể từ năm 1615, mọi công cuộc truyền đạo tại Việt Nam thuộc quyền điều động của dòng Tên Bồ Đào Nha, có trụ sở tại Nhật Bản, với sự phối hợp của tòa Giám Mục Bồ Đào Nha tại Macao.
Cũng do độc quyền truyền giáo mà Tòa Thánh đã dành riêng cho Bồ Đào Nha tại Á Châu, nên suốt trong các thế kỷ 15 và 16, các nhà truyền giáo Pháp hoàn toàn vắng bóng tại Viễn Đông. Năm 1619, Alaxandre De Rhôde lên tàu từ thủ đô Lisbone của Bồ Đào Nha để đến giảng đạo tại Việt Nam, không phải với tư cách là một giáo sĩ Pháp, mà là một giáo sĩ đặt dưới quyền bảo trợ của triều đình Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ chiến lược xâm lăng và truyền giáo tại Á Châu, Bồ Đào Nha chú ý đến việc phiên âm theo mẫu tự la-tinh ưu tiên là tiếng Tàu, tiếng Nhật, và sau đó là tiếng Việt. Cuốn từ vựng Bồ-Hoa được soạn thảo sớm nhất vào năm 1584. Tự điển La-Bồ-Nhật được hoàn thành năm 1595. Cuốn giáo lý tiếng Nhật được la-tinh-hóa năm 1592. Tất cả các kinh nghiệm về việc la-tinh-hóa chữ Nhật và chữ Tàu nói trên đều rất hữu ích cho việc phát minh chữ Quốc Ngữ của Việt Nam sau này.
IV.- Các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha ở Đàng Trong (Quảng Nam) là những người đã thật sự sáng tạo chữ Quốc Ngữ trong các năm 1617-1622.
Các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha bắt đầu truyền đạo ở Đàng Trong từ 1615. Từ 1617 họ khởi công la-tinh-hóa tiếng Việt. Người có công đầu trong việc này là linh mục Francis de Pina. Ông sinh tại Bồ Đào Nha năm 1585, đến giảng đạo tại Đàng Trong năm 1617 và sinh sống tại Việt Nam liền trong 8 năm. Lúc này, trụ sở của dòng Tên Bồ Đào Nha đặt tại Thanh Chiêm là dinh trấn của Nguyễn Phước Nguyên, nay là huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Bề trên của nhà dòng là linh mục Buzomi cũng là một nhà ngôn ngữ học, và chình ông đã sáng tác một hệ thống văn phạm tiếng Việt.
Năm 1618, linh mục Francis de Pina là người đầu tiên dịch các kinh la-tinh sang tiếng Việt. Đó là kinh Lạy Cha (Pater Noster), kinh Kính Mừng (Ave Maria). Kinh Tin Kính (Credo), kinh Sáng Danh (Gloria), ….
Đến năm 1622, linh mục Francis de Pina hoàn thành một hệ thống ghi âm theo mẫu tự la-tinh thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Năm 1624, linh mục Pina mở trường dạy nói tiếng Việt và dạy viết chữ quốc ngữ tại Thanh Chiêm để dạy các giáo sĩ mới đến giảng đạo tại Việt Nam, trong số đó có Alexandre de Rhôde và Antonio de Fontes.
Alexandre de Rhôde được linh mục Pina dạy tiếng Việt từ 1624 đến cuối năm 1625 thì chẳng may linh mục Pina bị tai nạn chết đuối tại bến cảng Đà Nẵng.
Linh mục Pina đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ, nhưng ông không phải là người duy nhất, vì có nhiều người khác đã đóng góp những nỗ lực của họ trong việc phân tích văn phạm, phân tích ngữ âm và thanh điệu của tiếng Việt. Do đó, công trình sáng tạo chữ quốc ngữ là một công trình tập thể của các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha giảng đạo tại Á Châu trong thế kỷ 17.
Nhiều người thường căn cứ vào việc xuất bản cuốn tự điển Việt-Bồ-La tại Rome năm 1651 để xác quyết Alexandre de Rhôde là tác giả đã phát minh ra chữ quốc ngữ. Sự thật Alexandre de Rhôde không phải là tác giả của cuốn tự điển này. Ông chỉ là người viết thêm vào tự điển phần la-tinh mà thôi. Hai phần quan trọng liên quan đến chữ quốc ngữ là tự điển Việt-Bồ thuộc công lao của linh mục Bồ Đào Nha Gaspar de Amaral và tự điển Bồ-Việt của linh mục Bồ Đào Nha Antonio de Barbose. Alexandre de Rhôde chỉ là một biên tập viên chứ không phải là tác giả của cuốn tự điển quan trọng này, nhất là vể phần Việt ngữ, nên ông ta không thể được coi là cha đẻ của chữ quốc ngữ được
Nhưng dù cho chữ quốc ngữ đã được phát minh do Alexandre de Rhôde hay do các tu sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha trong thế kỷ 17 thì bản chất của nó vẫn không thay đổi: Chữ Quốc Ngữ không phải là một món quà tặng do ngoại nhân có lòng tốt đem lại cho chúng ta. Nó thực sự chỉ là một thứ vũ khí do địch sáng chế để truyền vào dân tộc ta một thứ tôn giáo phi nhân, nhằm mục đích nô dịch nhân dân ta và đưa tổ quốc ta vào vòng nô lệ của chúng.
Nay chúng ta dung chính vũ khí đó của địch để đánh địch và tay sai. Đó là công việc mà các tác giả Giao Điểm đang làm. Các tác giả Giao Điểm đang noi gương tiền nhân dùng đòn “gậy ông đập lưng ông” trong mục tiêu xây dựng đất nước và bảo vệ văn hóa dân tộc: Noi gương Lý Thường Kiệt xưa kia dùng chữ Hán để viết “Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư” để xác nhận chủ quyền của tổ quốc. Trần Hưng Đạo dùng chữ Hán để viết “Hịch Tướng Sĩ” động viên toàn dân chống quân Nguyên. Nguyễn Trãi dùng chữ Hán viết “Bình Ngô Đại Cáo”. Trong thập niên 1930, các nhà cách mạng yêu nước Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã cổ súy việc học chữ quốc ngữ để mở mang dân trí và phổ biến tư tưởng cách mạng nhằm đánh đuổi thực dân Pháp. Đòn “gây ông đập lưng ông” là một chiến thuật lâu đời trong truyền thống chiến đấu bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
Để cụ thể hóa thái độ của chúng ta đối với bọn giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ, chúng ta hãy hình dung một tên cướp đột nhập vào nhà chúng ta với một con dao. Khi bị cảnh sát rượt đuổi, tên cướp đã vứt bỏ lại con dao tang vật. Hành động đúng nhất là chúng ta hãy sử dụng con dao tang vật vào những việc hữu ích, như cắt rau, thái thịt, v.v… Chạy theo tên cướp để cám ơn nó đã để lại con dao rõ ràng là một hành vi ngu xuẩn. Hô hào mọi người phải cám ơn bọn giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ cũng là một hành vi ngu xuẩn tương tự.
Charlie Nguyễn
Sept 2003
_______________
Các chương khác trong sách:
Alexandre De Rhodes và Chữ Quốc Ngữ
Con Đường Cụt của Vatican (Charlie Nguyễn)
Các Hoạt Động Chính Trị của Đạo Quân Thứ 5
Hồ Sơ Tội Ác của Hội Thừa Sai ...
In God We Trust
Màn Kịch Lộ Đức
Một Vấn Đề về Huyền Thoại Giáng Sinh
Nhận Xét về Thư của Phan Dình Diệm
Quan Niệm Ông Trời của Người Việt
Từ Thái Độ Khinh Miệt ...
Việt Nam cần thực hiện ...
Đòi Lại Đất bị Nhà Thờ Chiếm Đoạt
Độc Thần Giáo ...
___________________
Bài đọc thêm:
- Alexandre de Rhodes và Chữ Quốc Ngữ, Biện Chính Với Giáo Sư Chương Thâu (Bùi Kha)
- Đắc Lộ, Trương Vĩnh Ký & Chữ Quốc Ngữ của Tác Giả Minh Vân (Bùi Kha)
- Không Là Lính Thì Là Gì? (An chi, Huệ Thiên)
- Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt? (An Chi)
- Alexandre de Rhodes - Đối luận với tác giả Hoàng Hưng (Bùi Kha)
- A. de Rhodes, trả lời các ông Phạm Quang Tuấn và Phong Uyên (Bùi Kha)
- Alexandre de Rhodes, chữ Quốc ngữ và quan điểm chính trị (Bùi Kha)
- Có phải chỉ Alexandre de Rhodes là cha đẻ của chữ Quốc ngữ (Đậu Kỷ Luật)
- Alexandre De Rhodes và Chữ Quốc Ngữ (Charlie Nguyễn)
- Giáo Sĩ Đắc-Lộ &Chữ Quốc Ngữ Của Minh Vân (Trần Chung Ngọc)
- Giáo Sĩ Đắc Lộ & Chữ Quốc Ngữ (Bùi Kha)
- Phải Làm Gì Đối Với Tình Trạng Vinh Danh Những Việt Gian? (Nguyễn Mạnh Quang)
- Nguồn Gốc Chữ Quốc ngữ (Huỳnh Ái Tông)
- ALEXANDRE DE RHODES, Công và Tội (Bùi Kha)
- Chữ Quốc Ngữ Và Quan Điểm Chính Trị (Bùi Kha)
- Alexandre De Rhodes - Những Nhầm Lẫn Đáng Tiếc (Bùi Kha)
KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI SÁNG TẠO RA CHỮ QUỐC NGỮ VÀ
KHÔNG PHẢI LÀ TÁC GIẢ DUY NHẤT CỦA “TỪ ĐIỂN VIỆT-BỒ-LA”
I. UBND ĐÀ NẴNG NGỪNG ĐẶT TÊN ĐƯỜNG CHO ALEXANDRE DE RHODES
1.1. Hai khuynh hướng. Ủng hộ => thần tượng: Các học giả và tín hữu Thiên chúa giáo Việt Nam. Chống đối => tội đồ: Người yêu nước, chống chủ nghĩa thực dân.
1.2. Tiêu chí nhận xét: Vinh danh hay phê phán giáo sĩ A. de Rhodes không phải vì ông có cùng một tín ngưỡng hay khác đức tin với Phật giáo. Chỉ căn cứ trên công trạng hay tội trạng, nếu có, của ông đối với tiếng Việt và dân tộc Việt Nam.
1.3. Sở Văn hoá và Thể thao Đà Nẵng lấy ý kiến Dự thảo đề án đặt, đổi tên đường: 07-10-2019: Gồm 140 đường. Có đường Alexandre de Rhodes (1593 - 1660, người Pháp) và Francisco de Pina (1585 - 1625, người Bồ-đào-nha)
- Ngày 26.11, NSND Huỳnh Văn Hùng, Giám đốc Sở VH-TT TP.Đà Nẵng (Phó chủ tịch Hội đồng đặt, đổi tên đường TP tham mưu UBND TP chưa trình đề án ra kỳ họp HĐND TP cuối năm mà tạm gác để dịp sau. Do phản đối của Bản kiến nghị của 12 học giả ngày 23-10-2019
1.4. Tiêu chí chọn nhân danh đặt tên đường, phố: Khoản 5, điều 10, nghị định 91/2005/NĐ-CP quy định: “Đường, phố được đặt tên có thể là tên danh nhân bao gồm cả danh nhân nước ngoài. Danh nhân đó phải là người nổi tiếng, có đức, có tài, có đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như của địa phương hoặc có đóng góp đặc biệt cho đất nước, có công lớn trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc, được nhân dân suy tôn và thừa nhận. Những nhân vật lịch sử còn có ý kiến đánh giá khác nhau hoặc chưa rõ ràng về mặt lịch sử thì chưa xem xét đặt tên cho đường, phố và công trình công cộng.”
Lưu ý:
Đường Alexandre de Rhodes, gần 300 m, nằm trên phường Bến Nghé, quận 1, kéo dài từ đường Phạm Ngọc Thạch đến Pasteur. Sát công viên 30/4. Rợp cây xanh.
Theo Sổ tay tên đường ở TP HCM, tháng 6/1871 đường này có tên là Paracels. Tháng 10/1871 đổi thành Colombert. Năm 1955, tên Alexandre de Rhodes. Năm 1985 mang tên Thái Văn Lung. Khoảng 1995 => Alexandre de Rhodes đến ngày nay.
II. ALEXANDRE DE RHODES KHÔNG PHẢI LÀ TỔ KHAI SÁNG CHỮ QUỐC NGỮ
2.1. Ngộ nhận đáng tiếc:
- Những người đề nghị vinh danh Lm. Alexandre de Rhodes và đặt tên đường mang tên Linh mục này là vì ngộ nhận rằng ông là cha đẻ, người sáng tạo ra tiếng Việt theo mẫu tự La-tinh. Trong Lời nói đầu của cuốn Từ điển Việt-Bồ-La, NXB KHXH, 1991, tr.3, phần Việt ngữ, Lm. Alexandre de Rhodes đã chối bỏ điều đó.
- Lm. Alexandre de Rhodes dùng ký tự La-tinh để ký âm chữ An Nam để truyền bá đạo Thiên chúa => quyền tự do của ông ấy, đồng thời, cố tình phỉ báng đạo Phật, khi ông gọi Phật Thích Ca là thằng và xuyên tạc rằng đạo Phật là đạo quỷ.
- Năm 1500 TCN, người Latinh (tức La-mã cổ) mô phỏng hệ thống ký hiệu ghi âm (a phonetic system of writing) của Hy Lạp để sáng chế ra mẫu tự A,B,C,D,… (ta gọi là mẫu tự La-tinh).
- Các tu sĩ dòng Tên (Jesuists) Bồ-đào-nha tại Á châu thế kỷ 17 đã la-tinh-hóa ngôn ngữ Á châu (gồm có tiếng Nhật, tiếng Tàu và tiếng Việt) để truyền đạo => đề cao 1 mình Alexandre de Rhôde là thánh tổ sáng tạo ra chữ quốc ngữ?
2.2. Nguồn gốc chữ quốc ngữ (9 trích dẫn hữu ích)
(i) GS. Hoàng Tuệ (nguyên Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học), “Tuổi Trẻ Chủ Nhật’’, 1993, TP HCM, Việt Nam, với tựa đề “Ai Làm Ra Chữ Quốc Ngữ?’’, trang 14:
“…có giả thuyết cho rằng chữ quốc ngữ là công trình không phải của duy nhất ai, đặc biệt của riêng de Rhodes, mà là của nhiều người. Giả thuyết này không vu vơ, mà có căn cứ’’.
(ii) Đào Duy Anh, “Việt Nam Văn Hoá Sử Cương’’, NXB Tổng Hợp TpHCM, 1992 (1st 1950s)
“Xưa kia Việt ngữ vốn viết bằng chữ nôm, nhưng từ khi phép học đổi mới thì Việt ngữ lại viết bằng một thứ chữ mới gọi là chữ quốc ngữ. Thứ chữ này nguyên do các nhà truyền giáo sư Gia Tô đặt ra. Vào khoảng thế kỷ 16, 17, khi các nhà ấy mới sang nước ta, thì có lẽ mỗi người lấy tự mẫu của nước mình mà đặt ra một lối chữ riêng để dịch tiếng bản xứ cho tiện việc giảng dạy tín đồ. Các lối chữ riêng ấy sau do hai nhà truyền giáo sư người Bồ-đào-nha, rồi sau đến cố A. de Rhodes người Pháp tổ chức lại thành một thứ chữ thông dụng chung trong truyền giáo hội, tức là thủy tổ của chữ quốc ngữ ngày nay…”
(iii) Vũ Ngọc Phan, “Nhà Văn Hiện Đại”, quyển nhất, Tủ Sách Tao Đàn, NXB. Tân Dân, Hà Nội, năm Tân Tỵ, 1941:
“Vào khoảng cuối thế kỷ XVI, có các giáo sĩ người Bồ-đào-nha là bọn các ông cố Gaspard Amiral (đúng ra phải viết Gaspar d’Amiral), Antoine Barbore cùng các giáo sĩ người Pháp và người Nhật đến Bắc Kỳ. Rồi kế đến ông Alexandre de Rhodes tới Nam Kỳ từ tháng Chạp tây năm 1624…Cố Alexandre de Rhodes ra Bắc Kỳ ngày 19 tháng hai 1625; rồi đến năm 1651, ông xuất bản hai quyển bằng quốc ngữ nhan đề: Dictionarium Annamiticum và Catechismus. Cố Alexandre de Rhodes nói hai quyển này soạn theo bản của hai giáo sĩ Gaspard Amiral [Gaspar d’Amiral] và Antoine Barbore. Như vậy, thứ chữ quốc ngữ chúng ta hiện dùng ngày nay không phải do một người đặt ra, mà do ở nhiều người góp sức… (tr. 22&23).
(iv) Linh Mục Phan Phát Huồn, “Việt Nam Giáo Sử”, quyển 1 (1533-1933), Sài Gòn, 1965, trang 130: “Ngài [Alexandre de Rhodes] không phải là người đầu tiên sáng chế ra Việt ngữ, nhưng là người có công nhất trong việc tu sửa một thứ chữ đang trong thời kỳ phôi thai. Công việc tu sửa ấy là một sự nghiệp lớn lao...”
(v) Linh mục Đỗ Quang Chính (Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn, 1972, tr.78): "Đắc-Lộ không phải là người Âu châu đầu tiên học tiếng Việt, cũng không phải người đầu tiên sáng tác chữ quốc ngữ, hơn nữa, vào năm 1636 Đắc-Lộ cũng không phải là người ghi chữ quốc ngữ đúng được như một số Linh mục Dòng tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam thời đó. Thật ra, trong giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ, Đắc-Lộ chỉ góp một phần trong công việc quan trọng này, mà rõ rệt nhất là soạn sách chữ quốc ngữ và cho xuất bản đầu tiên".
(vi) Sử gia Mỹ Joseph Buttinger, The Smaller Dragon, A Political History of Vietnam, Frederick A. Praeger, New York, 1958:
“Chữ quốc ngữ không phải do Alexandre de Rhodes sáng nghĩ ra như phần lớn tác giả nói, trong đó có hai người Ý và Bồ-đào-nha, là giáo sĩ Gaspar d’Amiral và Antonio de Barbosa… Đây cũng là hai tác giả đầu tiên của cuốn Từ Điển Việt-Bồ…”
(Quốc Ngữ was not invented by Alexandre de Rhodes, as most authors say, but by Italian and Portuguese missionaries two of whom, Gaspar d’ Amiral and Antonio de Barbosa were the authors of the first Portuguese Vietnamese Dictionary, (Chapter 4).
(vii) GSTS.Nguyễn Tài Thư - nguyên Viện trưởng Viện Triết học (2010)
http://nhandanvietnam.org/view.php?storyid=871
“Cách đây gần 10 năm, một hội thảo của các nhà khoa học liên quan đến đề nghị từ Pháp nên dựng lại tượng và đặt tên đường Alexandre de Rhodes tại Hà Nội. Kết quả, phần lớn các nhà khoa học không đồng tình và phía Pháp đã rút lại khoản kinh phí hỗ trợ cho việc này.”
“Cho dù Alexandre de Rhodes là người góp phần hoàn thiện chữ Quốc ngữ nhưng cũng có một vết nhơ lớn khi đã gởi thư vận động triều đình Pháp mang quân xâm lược Việt Nam. Đây là điều không thể chấp nhận.”
(viii) Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết về nguồn gốc chữ quốc trong Tập san Nghiên cứu Lịch sử như sau: “….chữ quốc ngữ ngày hôm nay được hoàn chỉnh và phong phú, do những bậc thức giả là các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, các cụ Đông Kinh Nghĩa Thục, và là một công trình tập thể khởi đầu từ gần 4 thế kỷ trước..., Nhận ra tầm quan trong của việc mở mang dân trí và cổ xúy việc truyền bá quốc ngữ, do đó Hội Truyền Bá Quốc Ngữ và Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời vào thập niên 1930, và trong thời kháng Pháp, cán bộ ta truyền dạy chữ quốc ngữ cho nhân dân trong vùng tạm chiếm….Nói cho cùng chữ quốc ngữ ngày hôm nay phong phú và hoàn chỉnh là do những bậc thức giả cách mạng và toàn dân chung sức mà thôi.”
(ix) Bùi Kha 1996 (Giáo Sĩ Đắc Lộ & Chữ Quốc Ngữ ): “Lm. Đắc Lộ không phải là người có sáng kiến đầu tiên sử dụng mẫu tự La tinh để phiên âm chữ Quốc ngữ, mà do Dòng Tên Bồ-đào-nha và tập thể quần chúng như con chiên Việt Nam, thầy đồ, sư sải, các nhà văn hóa như phong trào Đông Du, nhóm Tự Lục Văn Đoàn, cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Vũ Hoàng Chương, Hồ Biểu Chánh, Chủ tịch HCM, v.v..”.
III. CHỮ QUỐC NGỮ CỦA ALEXANDRE DE RHODES RẤT SƠ KHAI
3.1. Chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt–Bồ–La phản ánh những âm vực nay đã biến mất trong tiếng Việt như những thí dụ sau đây (https://vi.wikipedia.org/wiki/Từ_điển_Việt–Bồ–La )
cách viết thế kỷ 17 | chính tả ngày nay |
khou᷄ | không |
đào᷄ | đòng |
dôi blá | dối trá |
blời | trời |
blu᷄́ | nhúng |
bua | vua |
mlẽ | lẽ, nhẽ |
plăn | lăn |
khŏở, thŏở | thuở |
vai |
3.2. Chữ quốc ngữ của Alexandre de Rhodes rất sơ khai. Ví dụ, kinh Lạy Cha được viết tay năm 1632 (trích từ sách “Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam” của Jacques Roland, Phụ trương VII, tr 375)
Bản văn của Đắc Lộ tương đối khá hơn vào năm 1651:
3.3. Một đoạn chữ quốc ngữ trong "Phép Giảng 8 Ngày...":
"Ngày thứ nhít. Ta cầu cừ đức Chúa blời giúp fưc cho ta biét tó tuầng đạo Chúa là nhuầng nào vì bậy ta phải hay ở thế nầy chẳng có ai fòú lâu; vì chưng ké đến bảy tám mươi tuếi chảng có nhiềo. Vì bậy ta nên tìm đàng nào cho ta được fòú lâu, thật là viẹc người cuên tử, khác phép thế gian nầy, dù mà làm cho người được phú quí; fâũ le chẳng làm được cho ta ngày fau...”
3.4. Linh mục Gasparo d'Amiral phiên âm Latinh gần với chữ Việt, hơn là các phiên âm của Đắc Lộ. Tài liệu Gasparo d'Amiral 1632 : Tài liệu Đắc Lộ 1636
Thanh đô vương | thanh đô |
Nhà ti | gna ti |
Nhà hién | gna hien |
Nghệ ăn, nghệ an | Gne an |
Bố chính | bochin |
IV. ALEXANDRE DE RHODES KHÔNG PHẢI LÀ TÁC GIẢ DUY NHẤT CỦA TỪ ĐIỂN VIỆT-BỒ-LA
4.1. La tinh hóa để truyền đạo Thiên chúa và cải đạo
- Thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Dòng Tên người Bồ-đào-nha, Ý và Nhật Bản nhờ quy chế bảo trợ của chính phủ thực dân Bồ-đào-nha đã tới hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài của Đại Việt.
- Họ học tiếng Việt và tạo ra hệ thống ghi âm tiếng Việt bằng chữ Latinh để truyền bá đạo Thiên Chúa và cải đạo tín đồ.
- Chiến lược xâm lăng và truyền giáo tại Á Châu, Bồ-đào-nha phiên âm theo mẫu tự la-tinh ưu tiên tiếng Tàu, tiếng Nhật, tiếng Việt.
- Quyển từ vựng Bồ-Hoa năm 1584. Tự điển La-Bồ-Nhật 1595. Cuốn giáo lý tiếng Nhật được la-tinh-hóa năm 1592 => hữu ích cho việc ký âm chữ quốc ngữ Việt Nam.
Nguyễn Xuân Thọ, “Les Débuts de L’Installation du Système Colonial Francais au Vietnam (1858-1897)’’, bản dịch Việt ngữ có tựa đề: “Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (1858-1897)’’, California, 1994:
Đoạn 5, chương I: “Nước Pháp đã rất nhanh chóng thay chân Bồ-đào-nha trong sự nghiệp truyền đạo tại Đông Dương (tức Indochine), nhờ sự hoạt động cá nhân của Linh Mục Alexandre de Rhodes, thuộc dòng Jésuites (Dòng tên), đã không ngừng làm công tác tuyên truyền tại Rome, rồi tại Pháp, với những nhân vật thân cận của Richelieu, và từ 1625 đến 1630, đã phát triển Kitô Giáo tại Nam Bộ và Bắc Bộ. Chẳng bao lâu, những bài ký sự của vị giáo sĩ, Giám Mục “Vùng ngoại đạo” Francois Pallu, đã làm cho người ta chú ý nhiều đến các dân cư Việt Nam”.
- Công cụ truyền đạo: 3 cuốn tự điển
(i) Từ điển Việt-Bồ (1631-1645) của Lm. Gaspar d’Amaral,
(ii) Tự điển Bồ-Việt của Linh mục Antonio Barbosa (1594-1647),
(iii) Từ điển Việt–Bồ–La của Alexandre de Rhodes, trong đó có 8.000 từ tiếng Việt dịch ra tiếng Bồ-đào-nha và tiếng Latinh.
- Năm 1629, Lm. Gaspar d’Amaral tới Đàng Ngoài truyền giáo. Người đầu tiên soạn bộ từ điển Diccionario Anamito-Portuguès-Latin (Từ điển Việt-Bồ-La), song chưa kịp cho ấn hành thì mất.
- Năm 1636, Lm. Antonio Barbosa đến Đàng Ngoài và soạn Từ điển Bồ-Việt, bản cảo viết tay.
-Từ điển Việt–Bồ–La (tiếng Latinh: Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) được Lm. Alexandre de Rhodes sử dụng thành quả của 2 từ điển có trước (mất bản gốc) và thêm phần Latinh, được Thánh Bộ Truyền bá Đức Tin (Sacra Congregatio de Propaganda Fide) ấn hành tại Roma năm 1651. Nxb KHXH, 1991.
=> Sai lầm của các học giả Thiên chúa giáo: Dựa việc xuất bản cuốn tự điển Việt-Bồ-La tại Rome năm 1651 để xác quyết Alexandre de Rhôde là tác giả đã phát minh ra chữ quốc ngữ.
4.2. Tập thể tác giả quốc tế và Việt Nam (5 dẫn chứng tiêu biểu)
(i) Hoàn thiện chữ Việt dạng Latinh hóa là công trình quốc tế có sự đóng góp của nhiều người, nhiều thế hệ
- Các tu sĩ dòng Tên Bồ-đào-nha ở Đàng Trong (Quảng Nam) sáng tạo chữ Quốc Ngữ trong các năm 1617-1622.
- Từ năm 1624, Alexandre de Rhôde học học tiếng Việt với 3 Lm Bồ-đào-nha là Francis de Pina, Amaral, Barbosa và học người Việt Nam 20 năm.
- Năm 1618, linh mục Francis de Pina là người đầu tiên dịch các kinh la-tinh sang tiếng Việt. Đó là kinh Lạy Cha (Pater Noster), kinh Kính Mừng (Ave Maria), kinh Tin Kính (Credo), kinh Sáng Danh (Gloria), ….
(ii) Trần tình của Alexandre de Rhodes trong Lời giới thiệu của Từ điển Annam-Lusitan-Latinh, tức Từ điển Việt-Bồ-La, Nxb KHXH, 1991, phần phiên dịch, tr.3):
“Tuy nhiên trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh (tức Đàng Trong và Đàng Ngoài), thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ-đào-nha, thuộc Hội Dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam (tức là từ điển Việt - Bồ), ông sau bằng tiếng Bồ - Đào (tức là từ điển Bồ - Việt), nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La tinh theo lệnh các Hồng y rất đang tôn.”
(iii) Hoàng Cơ Thụy, “Việt sử khảo luận”, cuốn 2, tập 4, Chương 2, (NXB. Nam Á, Paris, 1989), trang 703&704:
“Nên biết thêm rằng Lm. Gaspar d’Amaral có viết một quyển từ điển Việt-Bồ, sau trao lại cho Lm. Đắc Lộ. Ông d’Amaral bị chết đuối ở gần đảo Hải Nam ngày 23-12-1645, vậy cuốn từ điển của ông đã được soạn khoảng 1631-1645, và trao cho linh mục Đắc Lộ ở Áo Môn hồi mùa đông 1645.”
Nhưng sau ông được thừa hưởng hai cuốn từ điển viết tay là: cuốn Từ Điển Việt-Bồ nói trên…và cuốn Từ Điển Bồ-Việt của Linh mục Antonio Barbosa (Bồ-đào-nha, 1594-1647), đến giảng đạo ở Đàng Ngoài hồi 1636-1642, chết bệnh năm 1647…
Cả hai cuốn sách quý giá ấy về sau bị thất lạc nhưng đã giúp cho Linh mục Đắc Lộ cải thiện rất nhiều chữ quốc ngữ của ông…Nói tóm lại, Linh-mục Đắc Lộ không phải là người đầu tiên sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Ông chỉ có công phổ biến rộng rãi chữ quốc ngữ, với sự giúp đỡ vật chất rất đầy đủ của Bộ Truyền Giáo tại La Mã năm 1651.”
=> Alexandre de Rhodes không phải là người sáng chế ra chữ quốc ngữ nhưng có công phổ biến quốc ngữ bằng cách cho in sách và từ điển.
(iv) Linh mục Thanh Lãng (Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tập II, TPHCM, 1988, tr.136-137): "Giáo sĩ Đắc Lộ không những không phải là ông tổ duy nhất của chữ quốc ngữ mà cũng không phải là một trong các ông tổ của chữ quốc ngữ". Và "Sở dĩ Đắc Lộ về sau này được lịch sử nhắc nhở đến nhiều, có lẽ không phải vì ông đã có công kiện toàn chữ quốc ngữ cho bằng ông đã để lại hai quyển sách (tức Từ điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày) được coi như tài liệu duy nhất (có hệ thống) về chữ quốc ngữ".
(v) Học giả Charlie Nguyễn cho rằng Alexandre de Rhodes ăn cắp của hai giáo sĩ Bồ Amaral và Barbosa và biên soạn lại, cho thêm tiếng La-tinh: “Đó là lừa đảo, hay nói thẳng ra đó là hành vi “đạo” công trình của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, lại tự ý ghép tên mình thêm chữ “de” kệch cỡm! Hành vi “đạo” [nghĩa là ăn cắp] công trình rất rõ, vì không am hiểu người Việt nên Alexandre viết sai chữ độc nhất trên bìa: Annam viết là Annnam. Có người nói rằng đó là chữ quốc ngữ độc nhất sáng tạo bởi Alexandro Rhodes cũng không xa sự thật lắm!”
V. CHỐNG ALEXANDRE DE RHODES SAO LẠI DÙNG TIẾNG VIỆT LATINH CỦA ÔNG?
5.1. Chữ quốc ngữ không phải của Alexandre de Rhodes
5.2. Noi gương các anh hung dân tộc “gậy ông đập lưng ông”
- Lý Thường Kiệt xưa kia dùng chữ Hán để viết “Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư” để xác nhận chủ quyền Việt Nam.
- Trần Hưng Đạo dùng chữ Hán để viết “Hịch Tướng Sĩ” động viên toàn dân chống quân Nguyên. Nguyễn Trãi dùng chữ Hán viết “Bình Ngô Đại Cáo”.
-Thập niên 1930, các cụ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu cổ súy học chữ quốc ngữ để mở mang dân trí và phổ biến tư tưởng cách mạng nhằm đánh đuổi thực dân Pháp.
5.3. Chữ Việt Latinh đã xóa sổ vị trí quốc ngữ của Hán Nôm (3 dẫn chứng)
(i) Charlie Nguyễn Đôminic Bùi Văn Chấn, trong cuốn A. DE RHODES VÀ CHỮ QUỐC NGỮ do Giao Điểm, xuất bản 1998, từ tr 161 – tr 166, “…Về vấn đề chữ quốc ngữ, tôi thiết nghỉ chúng ta không phải “biết ơn” đối với các cố đạo Tây phương, nếu nghĩ rằng họ là người đầu tiên sáng chế ra chữ quốc ngữ. Lý do vì họ không có ý định làm ơn cho dân tộc ta mà chúng chỉ muốn sáng chế ra một phương tiện có lợi cho việc truyền giáo gieo rắc biết bao tai ương cho đất nước ta mà thôi. Chúng thực sự là địch quân của tổ quốc Việt Nam. Chữ quốc ngữ là một “chiến lợi phẩm” do chúng ta tịch thâu được trong tay địch. Chúng ta không cần phải quay cổ lại để cám ơn bọn địch về việc chúng đã “cho” chúng ta những chiến lợi phẩm đó. Chúng ta cướp súng địch để giết bọn chúng và dẹp tan bọn tay sai bán nước truyền kiếp, bọn này tự biến mình thành những kẻ xa lạ trên quê hương mình…” tr, 166
(ii) GS. Trần Chung Ngọc, trong phần Phụ lục quyển “Pétrus Trương Vĩnh Ký – Tuyển tập, do Lê Trong Văn biên tập, NXB. Mẹ Việt Nam, trong bài “Alexandre De Rhodes CÔNG hay TỘI?”
“…Một tên giặc tới nhà chúng ta, tạo ra một thứ vũ khí để dễ bề quyến rũ con em nhẹ dạ theo chúng phản lại tổ tiên, chúng ta dùng vũ khí đó để mở mang đầu óc của tất cả những người trong gia đình chúng ta bảo vệ được truyền thống luân lý đạo đức của gia đình, bảo toàn gia tài của tổ tiên khỏi bị cướp đi, vậy chúng ta nên nhớ ơn những người trong gia đình có sáng kiến dùng ngay vũ khí của địch đánh địch hay là chúng ta nên cám ơn kẻ đã mang vũ khí đến nhà chúng ta để cướp đi của cải và gây bất hòa trong gia đình chúng ta? Tôi hy vọng vấn đề công và tội của Alexandre De Rhodesnay đã sáng tỏ.”
- (iii) GS. Trần Trung Ngọc (Giáo Sĩ Đắc-Lộ & Chữ Quốc Ngữ, 06-4-2013) Vào thập niên 1930, hội truyền bá quốc ngữ ra đời, 1938, và dù thực dân Pháp và các Cha cố Ca-tô muốn cản cũng không được. Việc phát động học chữ Quốc Ngữ trong quần chúng còn có mục đích xóa nạn mù chữ. Chúng ta cũng phải kể đến việc Việt Minh phát động mạnh phong trào Bình Dân Học Vụ, truyền bá quốc ngữ trong những năm 1945-46, xóa nạn mù chữ và đến năm 1958 thì hơn 93% người dân đã thoát nạn mù chữ.. [Theo Alain Guillemin (TS. Viện Nghiên cứu Xã hội học Địa Trung Hải, Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp)
“Sự phát triển quốc ngữ cho tới ngày nay là do công ơn của cha ông chúng ta dùng đòn (gậy ông đập lưng ông), dùng quốc ngữ để mở mang dân trí người Việt, xuất bản báo chí bằng chữ quốc ngữ để phổ biến tinh thần cách mạng Pháp năm 1789, và khẩu hiệu “Tự Do, Bình Đẳng, Tình Huynh Đệ” thường được dịch thoát là “bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité) và từ đó các phong trào cách mạng đã lan rộng trong quần chúng, cuối cùng đưa đến sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, vô hiệu hóa âm mưu dùng Quốc Ngữ làm vũ khí văn hóa để nô lệ hóa đầu óc dân ta.”
VI. CHỮ QUỐC NGỮ LATINH VÀ CHIẾN LƯỢC XÂM LĂNG Á CHÂU CỦA BỒ-ĐÀO-NHA VÀ THỰC DÂN PHÁP
6.1. Về chủ nghĩa thực dân
- Nguyễn Ái Quốc (Cụ HCM): Bản án chế độ thực dân Pháp, tiếng Pháp, in 1925-26, trang 161 [12 chương, đăng trên báo Le Paria], chương Chủ nghĩa giáo hội: “Dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã cắm vào Việt Nam chế độ đáng nguyền rủa của thời trung cổ, người dân Việt Nam bị hành hình vừa bằng lưởi lê của nền văn minh tư bản chủ nghĩa vừa bằng cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh Chúa.” [Tổng Tập Văn Học Việt Nam, 1980, tập 36, NXBKH, tr 244]
- Chúng ta biết rằng chính phủ Pháp quyết định việc chinh phục Bắc Kỳ là do sự xúi giục của các ngài giáo phẩm thực dân [trong đó có giáo sĩ Alexandre De Rhodes] được mụ vợ Napoléon để tâm đỡ đầu. Và các vị đó đã làm những gì? Họ đã lợi dụng lòng hiếu khách của người Việt Nam để đánh cấp những bí mật quân sự, vẽ những bản đồ nộp cho quân đội viễn chinh. Chúng tôi không biết hiểu tiếng La Tinh gọi cái công việc ấy là gì, chứ tiếng Pháp thông dụng thì gọi đó là gián điệp” [Tổng Tập Văn Học Việt Nam, tập 36, tr 408, Lên Án Chế Độ Thực Dân]
6.2. Vì sao Alexandre de Rhodes bị Chúa Trịnh Tráng trục xuất? (7 dẫn chứng)
(i) Hoàng Cơ Thụy, “Việt Sử Khảo Luận”, cuốn 2, Tập 4, Chương 2, Nam Á, Paris, 1989, trang 703&704. Còn về linh mục Alexandre de Rhodes tức Đắc Lộ, ông có tới giảng đạo tại nước Nam hai lần: lần đầu từ 1624 đến 1630 (ở Đằng trong rồi Đằng ngoài, và bị Chúa Trịnh Tráng trục xuất), lần sau từ 1640 đến 1645 (ở Đàng Trong rồi bị Chúa Nguyễn Phúc Lan trục xuất).
(ii) Alexandre de Rhôde có sáng kiến lập ra hội Thừa Sai Paris và cũng là người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam. Sử gia Pháp là ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội năm 1930 đã viết:
“Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ-đào-nha, đã đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương” (pages 16-17).
(iii) Trong Hành trình và truyền giáo, Alexandre de Rhodes viết: “Tôi tưởng nước Pháp là một nước ngoan đạo nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều lính chiến (plusieurs soldats) đi chinh phục toàn cõi Đông phương (la conquête de tout l’Orient)…” (xem thêm Hồng Nhuệ dịch, TP. Hồ Chính Minh, 1994)
=> Tuy sự vận động đó chưa thành cuộc Thánh chiến trong thời điểm của ông, nhưng nó đã mở đường cho Pháp xâm lăng nước ta 206 năm sau. (Lính Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 1-9-1858).
(iv) Sách Hành trình và truyền giáo, tr. 264)“Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm những nơi cùng kiệt cõi đất.”.
(v) GS. Nguyễn Văn Kiệm (Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, Hà Nội 2000): “Sự Du Nhập đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19”, trang 300-301 viết: “Các giáo sĩ thừa sai, trong đó có Alexandre de Rhôde, đã gây nên một cú sốc lớn đối với đời sống tâm linh và văn hóa của dân tộc ta… làm băng hoại nền tảng của cộng đồng. Họ mang mặc cảm tự cao cho rằng Cơ Đốc giáo là tôn giáo hoàn vũ, cao siêu hơn bầt cứ tôn giáo nào khác …. Do đó, họ coi các tôn giáo truyền thống bản địa đều là thấp kém, man muội cần phải xóa sạch để thay thế bằng Cơ Đốc giáo.”
(vi) Stanley Karnow, “Việt Nam, A History. The First Complete Account of Việt Nam at War”, NY.1983: Việt Nam, Lịch Sử. Một Mô Tả Đầy Đủ Về Giai Đoạn Đầu Của Cuộc Chiến Việt Nam. Nhà sử học nổi tiếng này viết về A. de Rhodes như sau:
“Linh Mục Alexandre de Rhodes sớm thấy uy tín Bồ-đào-nha ngày càng mờ nhạt không còn ích lợi cho Công Giáo ở Á Châu. Ông nghĩ rằng, có thể chinh phục tâm hồn người bản xứ bằng các giáo sĩ người Việt hiệu quả hơn là các thừa sai Âu châu. Ông đến La Mã vận động việc bải bỏ giáo lệnh của Giáo Hoàng, có từ thế kỷ 15, cho Bồ độc quyền khai thác Á Châu. Nhưng ông bị Bồ chống đối quyết liệt và cũng khó xuây chuyển các giới chức tại Vatican, rồi ông lại trở về quê hương nước Pháp xin giúp đỡ. Để thành công, ông thuyết phục cả hai thành phần lãnh đạo tôn giáo và thương gia Pháp bằng hình ảnh là nước Việt Nam đã đến giai đoạn chín muồi để dân cải đạo theo Công Giáo, và là một quốc gia thần tiên với tài nguyên vô tận, ngay cả người đánh cá cũng dùng lưới làm bằng tơ.”
(Rhodes soon realized that its waning prestige no longer made Portugal a credible of Christianity in Asia. He calculated, too, that “hearts and minds” could be won more effectively by Vietnamese priests than European missionaries. He went to Rome to plead, arguing in effect for the abrogation of the fifteenth-century papal edicts that had granted Portugal its Asian domain. But he ran into stiff Portuguese opposition and the intractable Vatican bureaucracy, and he returned to his native France for help. To succeed, however, he would have to persuade French religious and commercial leaders to underwrite his project. Thus he lobbied with both, depicting Việt Nam as ripe for Christian conversion and portraying it as an Eldorado of boundless wealth where, as one of his accounts put it, Việt Namese fishermen wove their nets of silks”(P. 60).
(vii) Sử gia về Giáo hội Vatican La-mã và best-seller Avro Manhattan, “Vietnam: Why Did We Go? The Shocking Story of the Catholic “Church’s” Role in Starting the Vietnam War”, USA, 1984: Tại sao chúng ta đến đó? Chuyện chấn động về vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam:
“Trang 139: Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes Đến Đông Dương năm 1610. Mười năm sau, ông gửi về Vatican và Pháp một bản mô tả rất chính xác về tiềm năng thương mại, chính trị và chiến lược. Nhiều giáo sĩ dòng Tên Pháp lập tức được tuyển mộ và gửi sang giúp ông ta thực hiện hai công tác: Cải đạo theo Công Giáo và bành trướng thương mãi. La Mã và Ba Lê xem những hoạt động này như những bước dẫn khởi cho việc chiếm đóng chính trị lẫn quân sự trên các quốc gia này”.
(Jesuit priest Alexandre de Rhodes arrived in Indo-China in 1610. A decade later he sent back to the Vatican and to France a very accurate description of the commercial, political and strategic potential. French Jesuits were promptly recruited and sent to help him in his double work of converting to Catholicism and commercial expansion. Rome and Paris considered these activities as inseparable stepping stones leading to eventual political and military occupation of these countries, p.139).
VII. CHỦ NGHĨA THỰC DÂN VÀ VAI TRÒ CÁC GIÁO SĨ DÒNG TÊN
7.1. Từ khám phá đến xâm lăng
-Từ thế kỷ 15, Tây-ba-nha và Bồ-đào-nha có công nghệ đóng tàu, súng hỏa mai và kỹ thuật hàng hải. Các nhà thám hiểm Tây-ba-nha và Bồ-đào-nha thay đổi lịch sử nhân loại:
(i) Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ năm 1492
(ii) Vasco de Gama là người đầu tiên vượt mũi Hảo Vọng ở cực Nam châu Phi tới Ấn Độ năm 1497.
(iii) Alvarez Cavral vượt qua Đại Tây Dương tìm ra Brazil năm 1500.
(iv) Alfonso de Albuquerque vượt qua Ấn Độ Dương năm 1503, chiếm tỉnh Goa của Ấn năm 1510, chiếm Malacca năm 1511 để mở đường cho Bồ-đào-nha tiến vào Trung Quốc và Nhật Bản. Chính sự kiện này đã làm nảy sinh tham vọng của Bồ-đào-nha là xâm lăng toàn bộ Á Châu.
7.2. Tranh quyền thuộc địa và cải đạo
7.2.1. Sắc chỉ Inter Coetera năm 1493
- Thế kỷ 15, Tây-ba-nha và Bồ-đào-nha dẫn đầu thám hiểm, xâm chiếm thuộc địa và truyền đạo => thù địch nhau. Kiện, nhờ toà Thánh Vatican phân xử.
- Giáo hoàng Alexander VI hậu thuẫn xâm lăng, qua sắc chỉ Inter Coetera năm 1493, chia thế giới làm hai phần chạy từ Bắc cực xuống Nam cực chạy qua quần đảo Acores. Phía Tây thuộc độc quyền xâm lăng và truyền đạo của Tây-ban-nha. Phía Đông đường ranh gồm toàn vùng Á Châu thuộc Bồ-đào-nha.
- Chiến lược xâm lăng và truyền giáo tại Á Châu: Quyển từ vựng Bồ-Hoa năm 1584. Tự điển La-Bồ-Nhật 1595. Cuốn giáo lý tiếng Nhật được la-tinh-hóa năm 1592.
- Linh mục Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi gươm, Paris: Sudestasie, 1978, tr. 14-15:
“..., quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ “Romanus Pontifex” do (Giáo hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa thánh, Đức Giáo hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) “toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất, đô hộ và cướp tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn.”
“Ngày 4 tháng 5 năm 1493, qua sắc chỉ “Inter caetera” (“giữa những điều khác”), Giáo hoàng Alexander VI giao quyền chinh phục các vùng đất kể trên mà các dân Phương Tây chưa từng biết, cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha có quyền đi chiếm tất cả các đất đai gặp được ở một trăm dặm kể từ quần đảo Azores, còn Bồ Đào Nha, tất cả các nước nằm ở mạn Đông đường ranh đó (quần đảo Azores ở mạn giữa cắt đôi Đại Tây Dương.” (Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 14).
- Từ năm 1615, truyền đạo tại Việt Nam thuộc dòng Tên Bồ-đào-nha, có trụ sở tại Nhật Bản, với sự phối hợp của tòa Giám Mục Bồ-đào-nha tại Macao.
- Năm 1619, Alaxandre De Rhôde lên tàu từ thủ đô Lisbone của Bồ-đào-nha để đến giảng đạo tại Việt Nam, không phải với tư cách là một giáo sĩ Pháp, mà là một giáo sĩ đặt dưới quyền bảo trợ của triều đình Bồ-đào-nha.
7.2.1. Sứ mệnh của các giáo sĩ dòng Tên (Jesuite)
- Linh mục Alexandre de Rhodes gia nhập Dòng Tên lúc 19 tuổi (1612), đến Macao năm 1623, Nam Kỳ Việt Nam năm 1645. Trong 22 năm ở các nước Á Châu, qua về Âu Châu, ông ở Việt Nam 6-8 năm.
- Lời thề của các tu sĩ Dòng Tên trước Giáo Hoàng (Bản dịch của Thái Vân, Gia-tô thực dân sử liệu của Chu Văn Trình, Văn Sử Địa 1990, in lần thứ ba. Ban tu thư Tự Lực, trang 255-257):
Bùi Kha dịch: … Con xin tuyên hứa thêm rằng con sẽ, nếu có cơ hội, con sẽ gây ra và tham gia chiến tranh tàn nhẫn, bí mật hoặc công khai, chống mọi kẻ dị giáo, Tin Lành và Tự Do, như con được lệnh thi hành, tận diệt chúng khỏi mặt địa cầu; và con sẽ không chừa một ai, bất kể tuổi tác, nam hay nữ hay tình trạng xã hội; và con sẽ treo cổ, thiêu sống, luộc sống, mổ bụng, siết cổ và chôn sống những kẻ dị giáo ô nhục đó, phanh bụng moi bào thai của vợ chúng, và quật đầu con sơ sinh của chúng vào tường để tận diệt vĩnh viễn cái giống dân đáng ghét của chúng…
(The extreme oath of the Jesuits: http://www.ianpaisley.org/article.asp?ArtKey=jesuit )
…I furthermore promise and declare that I will, when opportunity present, make and wage relentless war, secretly or openly, against all heretics, Protestants and Liberals, as I am directed to do, to extirpate and exterminate them from the face of the whole earth; and that I will soar neither age, sex or condition; and that I will hang, burn, waste, boil, flay, strangle and bury alive these infamous heretics, rip up the stomachs and wombs of their women and crush their infants’ heads against the walls , in order to annihilate forever their execrable race!)
- bản Tuyên thệ cực đoan của Dòng Tên, nằm trong Biên bản chính thức của phiên thứ ba, Kỳ họp Quốc hội Liên Bang Hoa Kỳ lần thứ 62 (Dự luật được Nghị viện thông qua số 397, Bút lục số 1523, đề ngày 15 tháng 2 năm 1913, các trang 3215 đến trang 3216) (ngay sau đó đã bị loại ra). Bản tuyên thệ này cũng đã được Charles Didier trích dẫn trong cuốn “Subterranean Rome” (New York, 1843), dịch từ nguyên bản Pháp ngữ của Tiến sĩ Alberto Rivera, người đã xuất tu khỏi Dòng Tên vào năm 1967, khẳng định rằng nghi thức mở đầu và nội dung Bản tuyên thệ của Dòng Tên mà chúng tôi viện dẫn dưới đây chính là những gì ông đã từng trải nghiệm.
- Huỳnh Ái Tông với bài “Nguồn Gốc Chữ Quốc Ngữ” trên [http://chimviet.free.fr/ngonngu/phuctrun/phul050.htm] : “Linh mục Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta.”
- Bùi Kha: (Alexandre de Rhodes : Công và Tội): “Tóm lại, qua các trích dẫn và luận chứng nêu trên, ta thấy, Linh mục Đắc Lộ không hề có công sáng tạo chữ Quốc ngữ như nhiều người gán ép sai lầm qua nhiều thế hệ, còn truyền đạo chỉ là một trong những hình thức chính để phục vụ cho quyền lợi kinh tế và chính trị, rồi từ đó sẽ đưa đến chiến tranh chiếm thuộc địa.” (đăng trên báo Hồn Việt và trên http://sachhiem.net/./?content=showrecipe&id=5086 )
7.3. Mục đích sử dụng chữ quốc ngữ của giám mục Puginier: (Bùi Kha dịch trong bài Alexandre de Rhodes : Công và Tội)
Mở trường tiếng Pháp để truyền đạo: “Từ lâu, tôi chủ trương dạy và dùng chữ Châu Âu để viết tiếng An Nam, nhưng khốn thay, tôi không được ủng hộ trong việc thực hiện kế hoạch mà đã sáu lần tôi đề nghị. Nhưng tôi sung sướng thấy từ hai năm nay, chúng ta hoạt động tích cực trong mục đích này: Ngoài trường dạy tiếng Pháp của phái bộ là trường đầu tiên được thiết lập ngày 8-12-1884, chính phủ còn lập nhiều trường khác từ ngày 5-4-1885.”
Xóa bỏ chữ Nho và ảnh hưởng của Trung Quốc: “Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam viết và đọc được tiếng họ bằng chữ Âu Châu, việc này dễ hơn và tiện lợi hơn dùng chữ Nho. Trong vài năm sau, cần phải bắt buộc mọi giấy tờ chính thức không được viết bằng chữ Nho như trước nữa, phải viết bằng tiếng trong nước, mỗi viên chức ít nhất phải được dạy đọc và viết tiếng An nam bằng chữ Châu Âu. Trong lúc đó việc dạy chữ Pháp sẽ tiến triển nhiều hơn và chúng ta chuẩn bị một thế hệ để cung cấp các viên chức có học tiếng nước chúng ta. Như thế có lẽ trong vòng 20 hay 25 năm chúng ta có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều viết bằng tiếng Pháp, do đó chữ Nho sẽ dần già bị bỏ rơi mà chúng ta chẳng cần phải cấm đoán gì.
“Khi chúng ta đạt được thành quả lớn lao đó, chúng ta xóa đi của nước Trung hoa một phần lớn ảnh hưởng tại An nam và phe trí thức An nam là phe rất căm ghét sự thiết lập thế lực Pháp, cũng sẽ bị tiêu diệt dần dần.”
Chữ quốc ngữ là phương tiện chính trị, xâm chiếm Việt Nam:“Vấn đề này có tầm quan trọng rất lớn, sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An nam, rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông.”
Bắc Kỳ = nước Pháp nhỏ ở Viễn đông: “Tôi đã làm việc gần 30 năm trong phái bộ và tôi biết khá nhiều về đất nước này để bảo đảm được rằng nếu chính phủ chấp thuận theo kế hoạch mà chúng tôi hân hạnh đưa ra, thì không bao lâu nữa Bắc kỳ sẽ thành một nước Pháp nhỏ ở Viễn đông mà tôi một lòng tha thiết muốn xây dựng.”
VIII. KẾT LUẬN (2 dẫn chứng)
(i) NNC An Chi (Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt): “Cái tâm lý đòi dân ta phải mang ơn A. de Rhodes chẳng qua là hậu quả của sự nhồi sọ mà bọn thực dân Pháp đã thực hiện trong thời kỳ chúng còn cai trị dân ta, nước ta. Ngoài ra, còn có thể có cả những nguyên nhân khác thuộc về tâm thức riêng, và cả... tín ngưỡng riêng nữa.”
“Người ta thì làm cuốn từ điển để tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền đạo của người ta mà mình thì cứ nằng nặc đòi người Việt Nam phải ghi công ông cố đạo Alexandre de Rhodes, thậm chí có người mà lòng biết ơn cụ cố còn làm tượng nặng đến những 43 tấn.” (Theo antg.cand.com.vn)
(ii) Tình trạng tôn vinh Alexandre de Rhodes là lố bịch:
GS. Jacques Roland, trưởng khoa giáo luật ở đại học Saint Paul, Ottawa, Canada (“Pionniers Portugais de la Linguistique Vietnamienne Jusqu’en 1650” = Những Người Bồ Đào Nha Tiên Phong Về Ngôn Ngữ Học Việt Nam Cho Tới 1650). Bản dịch của Trần Chung Ngọc trong bài viết của ông: “Giáo Sĩ Đắc-Lộ & Chữ Quốc Ngữ”
(https://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt070.php)
Đề cao thái quá: “Đến khi chữ quốc ngữ đã bắt đầu được sử dụng chính thức tại Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, người ta cố truy tìm lịch sử của nó, bấy giờ tên tuổi Alexandre de Rhodes đã sớm được công nhận như là người khai sinh ra việc chuyển vần La- tinh vào tiếng Việt Nam. Rồi từ đó ông được nâng lên tận mây xanh như một ngôi sao đứng một mình, soi sáng cho đêm tối của quá khứ xa xưa, của những thời kỳ truyền giáo tiên khởi, trước khi các vị truyền giáo Paris đến, trong đó Taberd và các đấng kế vị là những đại diện có tên tuổi. Chính quyền thực dân và Giáo Hội đều đã ca ngợi thiên tài truyền giáo và ngữ học có một không hai của vị tu sĩ Dòng Tên, tán dương những lợi ích đem lại cho Việt Nam trong thời đại mới….”
Thấy vậy không phải vậy:“Về việc cho rằng Rhodes là người khai sinh ra các công trình có tính cách quyết định về tiếng quốc ngữ, các nhà nghiên cứu khoa học đã từng thấy hơi vướng vấp trước một mâu thuẫn: Rhodes, sinh ở Avignon, được xem là nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ; thế nhưng hệ thống chuyển tiếng Việt bằng chữ La tinh lại không mang dấu vết tiếng nói của Boileau ...”
Sao phải tránh né? “Tuy vậy đã không ai cố tìm hiểu để bác khước vị thế khai sáng của Alexandre de Rhodes từng được xem là cha đẻ của chữ viết này; người ta lại cố tìm cách tránh né khó khăn trên bằng cách đưa ra giả thiết về gốc gác có tính đa quốc của vị tu sĩ người Avignon ấy, đồng thời thổi phồng khả năng ngữ học vô song về nhiều thứ tiếng khác nhau của ông.”
****
MỜI XEM HAI BÀI GIẢNG CỦA TT. THÍCH NHẬT TỪ VỀ CHỦ ĐỀ NÀY
Bài 1: “LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES KHÔNG PHẢI NGƯỜI SÁNG TẠO CHỮ QUỐC NGỮ VÀ KHÔNG PHẢI LÀ TÁC GIẢ DUY NHẤT CỦA TỪ ĐIỂN VIỆT-BỒ-LA”
TT Nhật Từ giảng tại Chùa Giác Ngộ, lúc 18:22 ngày 28-11-2019 nhân dịp Sở Văn hoá - Thể thao Đà Nẵng tạm ngưng Dự án đặt tên đường Tại TP Đà Nẵng có ALEXANDRE De RHODES”
- Facebook: https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/960700710961307?vh=e&d=n&sfns=mo
-Youtube: https://youtu.be/GQEtHqIyR9E
(i) UBND Đà Nẵng ngừng đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes là quyết định đúng với Khoản 5, điều 10, nghị định 91/2005/NĐ-CP
(ii) Alexandre de Rhodes không phải là tổ khai sáng chữ quốc ngữ Latinh hóa
(iii) Chữ quốc ngữ của Alexandre de Rhodes rất sơ khai
(iv) Alexandre de Rhodes không phải là tác giả duy nhất của Từ điển Việt-Bồ-La
(v) Chống Alexandre de Rhodes sao lại dùng tiếng Việt Latinh của ông?
(vi) Chữ quốc ngữ Latinh và chiến lược xâm lăng Á châu của Bồ-đào-nha và thực dân Pháp
(vii) Chủ nghĩa thực dân và vai trò của các giáo sĩ dòng Tên (Jesuists)
Bài 2: “LINH MỤC ALEXANDRE DE RHODES THÓA MẠ ĐỨC PHẬT VÀ XÚC PHẠM TAM GIÁO TRONG SÁCH ‘PHÉP GIẢNG TÁM NGÀY’ CỦA ÔNG”
TT. Nhật Từ giảng tại Chùa Giác Ngộ vào lúc 18:30 ngày 29-11-2019
(i) Văn bản, tán dương và phê phán Alexandre De Rhodes
(ii) Nhận xét tổng quát về Alexandre De Rhodes
(iii) Đóng góp cho chữ quốc ngữ, nhiệm vụ và ý đồ của Alexandre de Rhodes
(iv) Khát quát về “Phép giảng tám ngày”
(v) Thóa mạ đức Phật và “tam giáo” bằng ngôn ngữ kém văn hóa
(vi) Thóa mạ đức Phật, miệt thị đạo Phật
(vii) Phê phán tục cúng ông bà của Việt Nam
https://www.facebook.com/ThichNhatTu/videos/547751742439287?vh=e&d=n&sfns=mo
Youtube: https://youtu.be/zd0eMf4l4j0