1. Dự Đoán của Alexandre Soljenitsyne Hai mươi ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ, nhà văn Nga Alexandre Soljenitsyne, người đoạt giải Nobel Văn Học năm 1970, đã tuyên bố trên đài truyền hình Paris rằng: “Việt Nam sẽ trở thành một nhà tù khổng lồ.” (Michel Tauriac, Hồ sơ đen Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn Văn dịch, California: Văn Mới 2002, tr. 36.) Ông là tác giả nổi tiếng của các tác phẩm chống lại chế độ Liên Xô, trong đó có Một Ngày của Ivan Denisovich (1962) và Quần Đảo Ngục Tù (1974-1976).
2. Bối Cảnh Lịch Sử Dự đoán của Soljenitsyne dựa trên kinh nghiệm bản thân trong các trại cải tạo tại Liên Xô và sự quan sát các diễn tiến tại Đông Âu và Trung Quốc. Tại Nga năm 1917, chính quyền Cộng sản bắt đầu áp dụng chế độ lao động cải tạo. Chính sách này tiếp tục được thực hiện tại Trung Quốc vào năm 1954.
3. Chính Sách Cải Tạo ở Việt Nam Sau Hiệp định Genève 1954, nhiều công chức và quân nhân đã di cư vào Nam Việt Nam. Một số ít còn lại tại Bắc Việt Nam bị chính quyền bắt giữ và áp dụng các chính sách cải tạo. Từ năm 1975, những chính sách đối với sĩ quan và công chức VNCH bị bắt giam đã được thực hiện một cách có hệ thống. Chính quyền Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã đưa ra nhiều mục tiêu nhằm triệt hạ vĩnh viễn quân đội và chính thể VNCH.
4. Ảnh Hưởng Lên Cá Nhân và Gia Đình Những người bị bắt giam phải chịu đựng lao động khổ sai, thiếu thốn cả về thể chất lẫn tinh thần. Gia đình họ cũng trở thành nạn nhân của các biện pháp kỳ thị và ngược đãi.
5. Kết Luận Dự đoán của Alexandre Soljenitsyne về "nhà tù khổng lồ" đã trở thành hiện thực. Những trang sử đau thương này không chỉ là một bài học lịch sử, mà còn là lời nhắc nhở về sự cần thiết của tự do và nhân quyền.
Lên Án và Tố Cáo Sự Lừa Dối và Tàn Bạo của Bắc Việt
Việc đàn áp có hệ thống và kéo dài đối với công dân miền Nam Việt Nam, đặc biệt là các cựu quân nhân, quan chức chính phủ, trí thức và dân thường, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, không chỉ là một chương lịch sử bi thảm mà còn là vết nhơ không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc. Những "trại cải tạo" được lập ra bởi chế độ Bắc Việt không đơn thuần là nơi học tập hay thay đổi tư tưởng, mà thực chất là công cụ đàn áp, hủy hoại cả thể xác lẫn tinh thần của hàng trăm ngàn con người.
Lừa Dối và Phản Bội Niềm Tin
Ngay từ đầu, chế độ Bắc Việt đã sử dụng sự lừa dối có hệ thống để kiểm soát và giam giữ người dân miền Nam. Những lời hứa ngắn hạn về chương trình "cải tạo" thực tế đã biến thành nhiều năm, thậm chí kéo dài hàng thập kỷ, với điều kiện sống và lao động vô cùng khắc nghiệt. Hành động này không chỉ phản bội niềm tin của người dân mà còn phơi bày sự vô nhân đạo trong cách hành xử của chính quyền.
Mời gọi trá hình: Các sĩ quan và công chức miền Nam được yêu cầu trình diện với lời hứa rằng họ sẽ tham gia các khóa học chính trị kéo dài một tháng. Nhưng thực tế, họ bị đưa đến những nơi giam giữ không có thời hạn rõ ràng.
Gia đình bị dẫn dắt sai lầm: Người thân của những người bị giam được thông báo rằng họ sẽ sớm trở về, nhưng phải chịu đựng sự chờ đợi mòn mỏi, đầy bất an.
Tàn Bạo Trong Các Trại Cải Tạo
Bên trong các trại cải tạo, điều kiện sống và lao động khổ sai là những cơn ác mộng thực sự. Những câu chuyện của người sống sót đã tiết lộ mức độ tàn bạo và sự coi thường hoàn toàn đối với giá trị của con người.
Điều kiện sống khắc nghiệt: Tù nhân bị giam giữ trong các lán trại chật chội, thiếu vệ sinh, và bị tước đoạt thực phẩm cùng thuốc men. Họ phải sống dựa vào khẩu phần ít ỏi không đủ dinh dưỡng.
Lao động cưỡng bức: Hàng ngày, tù nhân phải lao động dưới những điều kiện cực kỳ nguy hiểm, từ khai hoang rừng núi đến sản xuất gạch ngói, không nghỉ ngơi.
Tỷ lệ tử vong cao: Theo các nghiên cứu, hàng ngàn người đã mất mạng do suy dinh dưỡng, bệnh tật, và kiệt sức trong các trại giam.
Ví dụ, tại trại Đồng Găng, chỉ trong vòng hai tháng, hơn 100 tù nhân đã chết vì đói khát và bệnh tật, thể hiện mức độ tàn bạo không thể chấp nhận.
Đàn Áp Không Phân Biệt
Sự đàn áp không chỉ nhắm vào quân nhân và quan chức miền Nam mà còn mở rộng đến các nhóm dân tộc, tôn giáo và tầng lớp trí thức, doanh nhân.
Trí thức và chuyên gia: Các giáo viên, bác sĩ, nhà văn và thậm chí cả công chức về hưu đều trở thành mục tiêu. Họ bị xem là mối đe dọa cho chế độ mới.
Tự do tôn giáo bị bóp nghẹt: Các linh mục, mục sư, và nhà sư bị bắt giam với số lượng lớn, phản ánh sự áp bức tôn giáo của chế độ.
Doanh nhân và nhà buôn: Họ bị gán nhãn "kẻ thù giai cấp" và bị tước đoạt tài sản, đẩy vào các trại cải tạo hoặc lưu đày.
Hệ Lụy Xã Hội và Gia Đình
Những chính sách khắc nghiệt này không chỉ tàn phá cuộc sống của các cá nhân mà còn để lại di chứng nặng nề cho toàn xã hội:
Gia đình tan vỡ: Khi những người cha, người chồng bị giam giữ không thời hạn, các gia đình phải đối mặt với cảnh nghèo khó cùng cực và sự phân ly không lối thoát.
Tâm lý chấn thương kéo dài: Không chỉ tù nhân, mà cả vợ con họ đều phải sống trong nỗi sợ hãi và đau khổ, tạo nên một di sản chấn thương tâm lý truyền qua nhiều thế hệ.
Sự suy thoái về văn hóa: Hàng ngàn trí thức, học giả và nhà chuyên môn bị đẩy vào lưu vong hoặc im lặng, dẫn đến sự xói mòn nghiêm trọng về đời sống văn hóa và trí thức.
Theo các tài liệu, sau năm 1975, hơn 1 triệu người miền Nam bị giam giữ trong các trại cải tạo, và trong số đó, khoảng 165,000 người đã thiệt mạng vì đói khát, bệnh tật, và sự đối xử tàn bạo.
Lời Kết
Những trại cải tạo không chỉ là biểu tượng của sự lừa dối mà còn là minh chứng cho sự tàn bạo và bất công mà chế độ Bắc Việt áp đặt lên đồng bào miền Nam. Đây là bài học đắt giá về những nguy cơ của chế độ độc tài, sự coi thường nhân phẩm, và giá trị nhân quyền.
Lịch sử cần được ghi nhớ để tôn vinh những con người đã chịu đựng sự đàn áp khắc nghiệt này, đồng thời nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của tự do, công lý, và nhân quyền. Câu nói của văn hào Alexandre Soljenitsyne, rằng "Việt Nam sẽ trở thành một nhà tù khổng lồ," không chỉ là một lời tiên tri, mà còn là một lời nhắc nhở đau đớn về những chương đen tối trong lịch sử dân tộc.
Không có “cuộc tắm máu” nào như đồn đại khi bộ đội Bắc Việt tràn vào Sài Gòn ngày 30/4/1975. Bi kịch của người miền Nam sẽ đến chậm rãi và theo một cách khác.
Một ngày tháng 6/1975, cựu đại tá Trần Văn gói ghém quần áo, đồ ăn và tiền đến trình diện chính quyền mới, theo chương trình cải tạo kéo dài một tháng dành cho cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa. [1]
Trong ngày đầu tiên, Trần Văn và các sĩ quan được cho ăn uống đầy đủ, họ đi ngủ vào lúc 22:00. Nhưng đến nửa đêm thì tất cả bị đánh thức. Họ bị tách thành từng tốp 40 người và bị dồn lên xe tải. Khoảng 100 chiếc xe như vậy đã âm thầm rời khỏi Sài Gòn để đến một doanh trại của Quân lực Việt Nam Cộng hòa – nơi đã bị biến thành một khu giam giữ quân nhân bại trận.
Nửa năm sau, họ được chuyển đến một trại giam khác cách trại cũ hơn 60km. Họ nghe cán bộ nói rằng chính quyền mới sẽ không để họ trở về với gia đình vì họ là những người có “nợ máu với nhân dân”.
Trần Văn bị chuyển đến một trại cải tạo khác ở miền Bắc, giáp với biên giới Trung Quốc. Tới đây, họ lại nghe thông báo rằng phải tự kiếm cơm vì nhà nước không có dư tiền để nuôi họ.
Trong hàng năm trời, các cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa chỉ ăn khoai mì (củ sắn) và vào rừng lao động từ 5:00 sáng. Họ không biết khi nào mới được trở về nhà.
Năm 1980, chính quyền Việt Nam thừa nhận đã bắt hơn một triệu người dân miền Nam phải cải tạo ngắn hạn, và cầm tù dài hạn khoảng hơn 40.000 người mà không thông qua xét xử. [2]
Năm 1988, Thứ trưởng Bộ Thông tin Việt Nam (sau này là Bộ Thông tin và Truyền thông) xác nhận có khoảng 100.000 cựu quân nhân, công chức Sài Gòn bị cầm tù trong các trại cải tạo. [3] Các nguồn tin quốc tế cho rằng khoảng 200.000 người đã bị giam giữ ít nhất một năm. [4]
Đại tá Trần Văn được thả sau 12 năm trong trại cải tạo. Ông là một trong những người may mắn sống sót.
Cựu chính trị gia miền Nam Trần Văn Sơn kể rằng trong hai tháng ông bị giam giữ tại trại cải tạo Đồng Găng (tỉnh Khánh Hòa) có khoảng 100 tù nhân cải tạo đã chết vì thiếu ăn và bệnh tật mà không có thuốc men chữa trị. [5]
Một bác sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa được chính quyền thông báo thời gian cải tạo là 10 ngày nhưng cuối cùng ông đi biền biệt gần ba năm. Trong 10 tháng đầu bị giam giữ tại trại cải tạo L11 gần Biên Hòa, theo vị bác sĩ này, có năm người tự tử, 16 người chết vì suy dinh dưỡng và không được chữa bệnh. [6]
Một cựu tù nhân cải tạo khác đã chứng kiến buổi xét xử một đại úy và một trung úy thuộc lực lượng Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa tại một trại cải tạo ở Tây Ninh. Lúc xét xử, có hai chiếc quan tài đã được đặt sẵn kế bên để hành quyết họ ngay tại chỗ.
Vì sao người miền Nam bị đẩy vào trại cải tạo? Chuyện gì đã xảy ra bên trong những nơi này? Có phải chỉ quân nhân, nhân viên chính quyền Sài Gòn cũ mới bị giam giữ?
Một cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa đang lao động tại một trại cải tạo ở Tây Ninh, tháng 6/1976. Ảnh: Getty.
Giam giữ vô thời hạn
Ngay sau ngày 30/4/1975, các khóa “học tập” được tổ chức cho quân nhân, công chức chính quyền Sài Gòn. Nhưng không phải chuyện gì cũng đúng như thông báo của chính quyền. Các khóa cải tạo trong vài tháng bị biến thành những năm tù khổ sai. [7]
Tháng 3/1977, Đài Phát thanh Hà Nội cho biết có khoảng 5% sĩ quan quân lực, công chức chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải đi cải tạo dài hạn. [8]
Theo hãng tin AP, ước tính có khoảng 100 trại cải tạo trên khắp cả nước và khoảng 150.000 quân nhân, công chức chế độ cũ bị giam giữ không thông qua xét xử. [9][10] Tuy nhiên, họ không phải là thành phần duy nhất bị nhốt vào trại cải tạo.
Giam giữ không giới hạn
Ngoài quân nhân, công chức Việt Nam Cộng hòa, nhiều thành phần khác, kể cả những người không dính líu đến chính quyền Sài Gòn cũng bị bắt vào trại cải tạo.
Năm 1975, một nhà buôn tại Buôn Ma Thuột đã bị giam trong trại cải tạo gần ba năm vì sở hữu một cửa hàng. [11]
Tháng 8/1975, 20 lái buôn lúa gạo của tỉnh Bạc Liêu bị bắt vào trại cải tạo, trong đó có người được cho là đã bị tra tấn đến chết. Đến năm 1979, tức bốn năm sau đó, một số lái buôn này vẫn còn bị giam giữ. [12]
Tổ chức Ân xá Quốc tế cho biết trong năm 1976 – 1977 nhiều người không liên quan gì đến chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng bị bắt vào trại cải tạo, ví dụ như nhà văn, nghệ sĩ, công chức đã về hưu trước năm 1975.
Đến năm 1978, nhiều thương nhân người Hoa bị bắt vào trại cải tạo trong “chiến dịch đánh tư sản”. [13] Ngoài ra, những người nào vượt biên trái phép cũng có thể bị bắt vào trại cải tạo đến ba năm. [14]
Năm 1980, hãng tin AP cho biết có 200 linh mục Công giáo bị bắt giữ, hơn 50 mục sư Tin Lành và hơn 30 nhà sư Nam Tông ở miền Tây Nam Bộ vẫn còn bị giam giữ trong các trại cải tạo. [15]
Năm 1985, Ủy ban vận động cho Tù nhân Chính trị Việt Nam tại Mỹ cho rằng còn khoảng 300 nhà văn, nhà thơ, nhà báo bị cầm tù tại Việt Nam. [16]
Một số nhà văn đồng thời là quân nhân đã bị cầm tù rất lâu như Tô Thùy Yên (13 năm tù), Phan Nhật Nam (14 năm tù), Thảo Trường (17 năm tù). [17]
Những bản án nặng này giải thích vì sao chế độ mới dựng lên các trại cải tạo.
Một trại cải tạo ở Bến Tre. Ảnh: Bill Herod.
Vì sao có trại cải tạo?
Chính quyền cộng sản đưa ra nhiều lý do khác nhau về sự cần thiết của trại cải tạo để giam giữ dân miền Nam.
Tháng 9/1980, Hà Nội cho biết có khoảng 20.000 người bị giam giữ trong các trại cải tạo. Không xét xử, chính quyền khép tội họ “phản bội Tổ quốc” và “gây phương hại đến an ninh công cộng”. Quan chức Việt Nam nói rằng chính sách cải tạo nhân đạo hơn so với việc xét xử. [18]
Sau bảy năm duy trì các trại cải tạo, năm 1982, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố Việt Nam sẵn sàng cho tất cả tù nhân cải tạo sang Mỹ một cách vô điều kiện. [19] Nhưng sau đó, năm 1984, Việt Nam lại mâu thuẫn với Mỹ về chính sách này. Họ muốn Mỹ phải lập tức nhận tất cả tù nhân chứ không được lựa chọn. [20]
Một thời gian ngắn sau đó, Việt Nam yêu cầu Mỹ phải đảm bảo những tù nhân này sau khi qua Mỹ không được thành lập lực lượng chính trị đối lập. [21]
Trả lời báo chí tại Mỹ vào năm 1985, nhà ngoại giao kỳ cựu Lê Đức Thọ nói Việt Nam đang giam giữ khoảng 10.000 tù nhân chính trị trong trại cải tạo. Ông Thọ khẳng định họ là tội phạm chiến tranh chứ không đơn thuần là những người hợp tác với chế độ cũ. Ông cho biết những người này chưa cho thấy bản thân đã được cải tạo tốt nên vẫn còn bị giam giữ. [22]
Tuy nhiên, một nhà ngoại giao nước ngoài cho rằng đây là những quân nhân, chính trị gia ưu tú của miền Nam. Lý do cộng sản vẫn chưa thả họ là vì lo ngại họ còn sức ảnh hưởng với dân chúng miền Nam. [23]
Do không thông qua xét xử, tù nhân trại cải tạo không có bản án, không có thời hạn bị giam giữ. Chính quyền sẽ giam giữ ai khi thấy họ có sức ảnh hưởng tới dân. Chính quyền có thể giam giữ họ vô thời hạn.
Cự tuyệt thực thi Hiệp định Paris 1973 và các chính sách hòa giải, chính quyền mới giam giữ khắc nghiệt các tù nhân, bắt họ lao động khổ sai.
Điều 11 – Hiệp định Paris 1973
Ngay sau khi ngừng bắn hai bên miền Nam Việt Nam sẽ:
– Thực hiện hoà giải và hoà hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia;
– Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.
Những nhà tù khổng lồ ở Việt Nam sau năm 1975 là cách thủ tiêu hợp lý một số tù nhân, cũng như để trừng phạt người của chế độ cũ hoặc ai chống lại chế độ mới.
Cụ thể trong các trại cải tạo này, chính quyền cộng sản đã làm gì?
Tù nhân chết vì đói
Thiếu tá Khong Nang Hanh, chỉ huy của một tiểu đoàn pháo binh, bị gãy hết hàm răng sau 10 năm đi cải tạo ở miền Bắc. Ông nói với phóng viên tờ The Leader Post tại một trại tị nạn ở Philippines vào năm 1986: “Đó là trại cải tạo tàn độc nhất. Chúng tôi không có gì để ăn. Chúng tôi chỉ ăn cơm có một ngày trong tháng. Mấy ngày còn lại, họ cho chúng tôi ăn củ cải trắng, khoai và bắp”. [24]
Một thiếu tá Việt Nam Cộng hòa cho biết khoảng 1.500 tù nhân trong trại cải tạo ở tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam) mà ông bị giam giữ, mỗi tuần có khoảng 15 người chết vì đói ăn và bệnh tật. Tình trạng này kéo dài khoảng hai năm thì chính quyền mới cho phép tù nhân nhận thực phẩm và thuốc men từ người nhà. [25] Trại cải tạo ở Hà Nam Ninh cũng là nơi mà Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, nguyên Viện trưởng Đại Học Cần Thơ, bị giam giữ. Ông Xuân qua đời năm 1986 vì bệnh nặng.
Một tù nhân khác cho biết trong năm đầu tiên ở trại cải tạo, thức ăn của họ là những con vật họ thấy được như rắn, thằn lằn. Đến năm thứ hai, không còn con vật nào để ăn, tù nhân ăn bất cứ thứ gì mọc trên đất. [26]
Sau hai năm cải tạo, cân nặng của một người đàn ông có thể chỉ còn khoảng 36kg. [27]
Điều kiện sống tại mỗi trại cải tạo thường khác nhau. Tù nhân thường chỉ được ăn cơm trắng và muối, rất ít rau và thịt trong các bữa ăn. Lúc nào tù nhân cũng cảm thấy yếu ớt nhưng vẫn phải lao động cực nhọc. [28]
Một bài báo năm 1987 trên tờ The Mercury News của Mỹ, minh họa cảnh trong trại cải tạo. Ảnh: Anna Mallett / Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ (Đại học Công nghệ Texas).
Cưỡng bức lao động
Trong các trại cải tạo, các tù nhân miền Nam phải làm các công việc nặng nhọc suốt ngày và làm bằng tay, dụng cụ thô sơ chứ không hề có máy móc.
Một cựu tù nhân cho biết mỗi buổi sáng họ được phát cho một nắm cơm rồi bắt đầu đi lao động. Tháng này họ đào kênh dài 10m mỗi ngày, tháng sau họ lại phải đốn một mét khối gỗ một ngày. [29]
Các tù nhân phải làm tất cả mọi thứ mà cán bộ sai bảo họ, bao gồm chuyện chặt cây, lợp mái, xây nhà cho hết cán bộ này đến cán bộ khác. [30] Thậm chí, một cựu tù nhân cải tạo còn nói công việc của ông là mang phân người đi bón cho vườn rau tại trại cải tạo, và cán bộ bắt ông dùng tay để bón phân. [31]
Trung tướng Nguyễn Hữu Có, người từng giữ chức phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, bị bắt đào ao, chặt cây từ rừng về để tự dựng trại cải tạo tại Yên Bái.
Ông bị giam giữ ròng rã suốt 12 năm và qua năm trại cải tạo khác nhau. Mấy năm đầu, người nhà ông không được thăm gặp, sau đó mỗi năm ông được gặp gia đình một lần. [32]
Chết trong khi lao động cũng không phải trường hợp hiếm gặp. Một cựu tù cải tạo nói mình bị bắt trong khu vực bãi mìn còn sót sau chiến tranh và nhiều tù nhân mất mạng vì giẫm phải mìn. [33]
Nhưng đây chưa phải là điều tồi tệ nhất.
Đấu tố trong trại cải tạo
Chuyện đấu tố không xa lạ gì dưới chế độ cộng sản. Ở trại cải tạo, tù nhân phải khai lý lịch chi tiết của mình và gia đình, những sự kiện từ lúc mới sinh ra cho đến năm 1975, đặc biệt là mối liên hệ với Mỹ.
Trả lời phỏng vấn tờ The New York Times, cựu dân biểu Quốc hội, Đại tá Trần Ngọc Châu, tù nhân một trại cải tạo gần Long Thành, cho biết ông bị cán bộ bắt phải viết lại lý lịch chi tiết của mình hai lần, trong đó phải làm rõ ông bị “đế quốc Mỹ” thao túng ra sao. Khoảng một phần tư người trong buồng giam của ông phải viết lại lý lịch của mình đến lần thứ ba. [34]
Sau đó, Đại tá Trần Ngọc Châu phải thảo luận công khai tội lỗi của mình với những tù nhân khác. Những buổi luận tội này kéo dài trong hàng tháng trời, từ sáng đến chiều, từ chiều đến tối, tù nhân chỉ được nghỉ để ăn và tập thể dục.
Thiếu úy Nguyễn Văn Thắng thuật lại rằng cán bộ trại cải tạo Phú Yên bắt ông phải viết lại lý lịch ba đời vì gia đình ông theo đạo Công giáo và di cư từ Bắc vào Nam.
Những bản lý lịch nhanh chóng trở thành các bản nhận tội dài dằng dặc. Thậm chí, nhiều tù nhân phải bịa ra tội lỗi của mình vì cán bộ cộng sản nói ai thú nhận càng nhiều tội lỗi với cách mạng thì cách mạng sẽ sớm cho họ trở về nhà. [35]
Chưa kể, ở một số trại cải tạo, ban ngày lao động, ban đêm các tù nhân còn phải học về chủ nghĩa cộng sản.
Một lớp “học tập cải tạo”. Ảnh: Marc Riboud / Flickr.
Hình phạt dã man
Một số tù nhân trại cải tạo nói rằng họ chưa từng bị đánh hay tra tấn trong thời gian bị giam giữ. Nhưng nhiều trường hợp nói rằng họ từng chứng kiến cán bộ đánh đập hoặc bắn chết bất cứ tù nhân nào muốn trốn thoát.
Cựu trung úy Phạm Ngọc kể rằng một lần có khoảng 100 tù nhân trốn thoát nhưng có đến 90 người bị giết chết sau đó. [36]
Phi công Nguyễn Văn Trọng thuật lại có sáu tù nhân trong nhóm của ông bị cán bộ trại bắn chết chỉ vì hiểu lầm. Khi đó, khoảng 150 tù nhân được dẫn ra ngoài để tắm ở một con suối. Trên đường đi, những tù nhân đi đầu cần uống nước nên xin phép cán bộ (đi cùng hàng đầu) cho vào một ngôi nhà để uống nước. Tuy nhiên, cán bộ đi sau không biết việc này. Thế là khi những tù nhân đi đầu rời khỏi hàng thì cán bộ đi sau đã nã súng máy vào các tù nhân vì tưởng họ bỏ trốn. [37]
Ngoài ra, cán bộ có thể phạt tù nhân bằng nhiều hình phạt khác nhau. Có hình phạt dẫn đến chết người.
Phi công Nguyễn Văn Trọng cũng kể một trường hợp cán bộ trại cải tạo bắt một tù nhân (có ý định trốn thoát) vào một chiếc hộp đặt dưới lòng đất trong ba tuần. Mỗi ngày họ thả xuống cho tù nhân ấy một nắm cơm. Người này sau đó bị treo hai tay lên cao và bị đánh đến chết. Xác của người này bị đem ra khỏi hộp, cán bộ trại tù đánh tiếp để cảnh cáo những tù nhân khác. [38]
Đại tá Nguyễn Thọ Lập cho biết một lần cán bộ phát hiện một tù nhân đến gần hàng rào của trại vào ban đêm. Tù nhân này sau đó bị nhốt vào thùng container. Hai tuần sau, xác của người này được kéo ra vào đặt vào quan tài. [39]
Tranh minh họa một hình phạt tra tấn trong trại cải tạo. Nguồn: San Jose Mercury News / Ngày 11/10/1987 / Anna Mallett / Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ (Đại học Công nghệ Texas).Tranh minh họa một hình phạt tra tấn trong trại cải tạo. Nguồn: Anna Mallett / Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ (Đại học Công nghệ Texas).
Vào những năm 1980, sự khắc nghiệt của trại cải tạo cuối cùng cũng được quốc tế biết đến qua lời kể của các cựu tù nhân cải tạo đã vượt biên. Việt Nam đứng trước sự chỉ trích của quốc tế về sự vô nhân đạo trong các trại cải tạo.
Năm 1987, báo chí quốc tế dẫn tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phan Hiền xác nhận việc trừng phạt các tù nhân trại cải tạo là có thật. Thông báo nói rằng Việt Nam đang đối xử với tù nhân cải tạo một cách nhân đạo và nhân văn. Nhưng những tù nhân nào vi phạm quy định của trại hoặc muốn trốn thoát thì phải chịu hình phạt. [40]
Trước các cáo buộc của quốc tế về việc đày đọa các tù nhân trại cải tạo, năm 1987, người phát ngôn của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc phản hồi: “Chúng tôi là một nước nghèo. Những người này [tù nhân trại cải tạo] đã quen với cuộc sống xa hoa. Họ nhận hàng tỷ đô-la từ người Mỹ. Chúng tôi có khó khăn trong việc nuôi người dân chúng tôi, và đương nhiên cũng có vấn đề khi nuôi những tù nhân này”. [41]
Tuy nhiên, hình phạt không chỉ tồn tại trong trại cải tạo, ngay cả khi tù nhân được trở về với gia đình thì chính quyền vẫn tiếp tục trừng phạt họ.
Không còn đường lui
Khoảng năm 1977 – 1978, chính quyền Việt Nam bắt đầu thả một số cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa có cấp bậc thấp trở về với gia đình. Tuy nhiên, những người này vẫn bị giám sát gắt gao.
Một đại úy được thả vào cuối năm 1978 cho hay ông không thể đi cách nhà quá 5 km và không thể làm bất cứ việc gì để sinh sống. [42]
Một người khác cho biết mỗi tuần, ông phải trình diện tại công an địa phương và sau đó là mỗi tháng. Ông và người thân làm việc gì cũng bị theo dõi. [43]
Một cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa sau bảy năm cải tạo nói không thể tìm được việc làm nào khác ngoài nghề đạp xích lô. [44]
Nhiều tù nhân sau khi được thả về nhà bị chính quyền yêu cầu di chuyển gia đình đến các vùng kinh tế mới hoặc phải đi lao động tập thể nhiều tháng trời.
Một cựu tù nhân tên Nguyễn Mạnh Hùng, được thả vào năm 1978, nói rằng ông phải cam kết với cán bộ trại cải tạo sẽ về quê làm nông thì mới được thả. [45]
Báo cáo của Mỹ vào năm 1984 cho biết chính quyền Việt Nam từ chối cấp giấy tờ để các cựu tù nhân cải tạo tìm việc làm và nhà ở, không cấp chứng minh nhân dân để họ đi lại trong nước. Chính quyền cũng từ chối cho họ tham gia chương trình Ra đi có trật tự (vào lúc này người Việt Nam chưa được phép sang Mỹ theo diện cựu tù nhân cải tạo mà chỉ được đi theo diện đoàn tụ gia đình nếu có người thân ở Mỹ). [46]
Năm 1986, tờ báo The Leader Post đưa tin một số người Việt Nam vượt biên đến các trại tị nạn lúc này là thanh niên. Những người này vì có cha, mẹ từng làm việc cho chính quyền, quân lực Việt Nam Cộng hòa nên không có cơ hội học tập và hoặc thăng tiến trong công việc. [47]
Một đại tá đã đi cải tạo 14 năm cho biết không một ai trong chín người con của ông được làm việc cho chính quyền mới. Các con của ông phải làm những nghề như đạp xích lô, thợ hồ. [48]
Vào lúc này, người dân cho rằng chính quyền đang áp dụng chính sách phân biệt đối xử ba đời dành cho những người là quân nhân, nhân viên của chính quyền Sài Gòn. Do đó, họ không còn cách nào khác là vượt biên.
Hội trường chính ở Trại cải tạo Thủ Đức ngày nghỉ cuối tuần, năm 1988. Ảnh: Kienthuc.net.vn.
Ân xá tù nhân
Vào cuối thập niên 1980, hơn 10 năm sau chiến tranh, chính quyền Việt Nam biết mình không thể giam giữ mãi tù nhân trong các trại cải tạo.
Vào lúc này, Việt Nam muốn củng cố hình ảnh của mình trước quốc tế, và đặc biệt là bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Vấn đề tù nhân cải tạo được Mỹ rất quan tâm.
Tháng 9/1987, Việt Nam ân xá 480 tù nhân trong các trại cải tạo là quân nhân, công chức của chế độ cũ. Trong số này có hai bộ trưởng, 18 công chức cao cấp của chính phủ, chín tướng lĩnh quân đội, bao gồm tướng Nguyễn Hữu Có cùng nhiều sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng 7.000 người bị giam giữ trong các trại cải tạo. [49]
Vào dịp Tết Nguyên đán năm 1988, chính quyền tiếp tục ân xá cho 1.014 tù nhân. Trong số này, có 10 tướng lĩnh được thả, bao gồm tướng Trần Văn Cẩm và Nguyễn Vĩnh Nghi. [50]
Rời khỏi quê hương
Đến tháng 7/1988, Mỹ đạt được thỏa thuận với Việt Nam về việc đưa 11.000 cựu tù nhân trại cải tạo cùng hơn 40.000 người thân của họ rời khỏi Việt Nam. [51]
Thỏa thuận với Việt Nam giúp Mỹ mở ra chương trình tái định cư đặc biệt cho các tù nhân trại cải tạo, hay còn gọi là “ra đi theo diện H.O”. Trước đó, các cựu quân nhân cũng có thể đến Mỹ nhưng theo diện đoàn tụ gia đình là chủ yếu.
Năm 1989, Mỹ tiếp nhận bất cứ cựu tù nhân nào đã đi cải tạo từ ba năm trở lên. [52] Vào lúc này, Việt Nam còn giam giữ khoảng 100 tù nhân. [53]
Năm 1990, số cựu tù nhân cải tạo đến Mỹ ước tính khoảng 1.000 người mỗi tháng. [54] Tuy nhiên, danh sách mà Việt Nam yêu cầu Mỹ phải tiếp nhận lên đến 60.000 người. [55] Thêm vào đó, Mỹ còn phải giải quyết hàng trăm nghìn hồ sơ của những người Việt khác, ra đi theo các diện khác như con lai, đoàn tụ gia đình. [56]
Do đó, tốc độ Mỹ xử lý các hồ sơ tái định cư của các cựu tù nhân là khá chậm chạp. Cộng thêm nỗi lo sợ bị bắt một lần nữa vào trại cải tạo, một số tù nhân chọn cách giong thuyền ra Biển Đông.
Vào tháng 5/1992, ông Lê Văn Bàng, Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, cho biết trong dịp kỷ niệm ngày 30/4, Việt Nam đã thả tất cả các tù nhân còn lại và điều này là cử chỉ nhân đạo của Việt Nam. [57]
Giữa thập niên 1990, Mỹ tiếp nhận mỗi năm khoảng 10.000 cựu tù nhân trại cải tạo và gia đình của họ đến Mỹ. [58] Thống kê cho thấy năm 1997, có 468.500 người Việt Nam đến Mỹ theo diện cựu tù nhân cải tạo cùng với người thân. [59]
Vào lúc này, chỉ còn 145 gia đình chờ phỏng vấn để sang Mỹ tái định cư. Vấn đề trại cải tạo dần dà khép lại trên mặt báo.
Việt Nam chưa bao giờ công bố số tù nhân đã chết trong các trại cải tạo. Đối với những người còn sống, trại cải tạo vẫn là nỗi ám ảnh đến cuối đời. Nó còn đặt ra một câu hỏi dai dẳng cho thế hệ sau: Vì sao ông cha của họ bị đẩy vào hoàn cảnh bi đát đến như vậy?
Phân tích về ngày 30/4/1975: Giải phóng hay bi kịch chia ly?
Ngày 30/4/1975 không chỉ là một cột mốc trong lịch sử Việt Nam, mà còn là biểu tượng của những cảm xúc đối lập, những tranh cãi kéo dài và những nỗi đau chưa nguôi. Với một bên, đây là "ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", đánh dấu sự kết thúc của một cuộc chiến tranh dài đằng đẵng. Nhưng với hàng triệu người khác, ngày này lại được khắc sâu như "ngày quốc hận", một ký ức về mất mát, chia ly và đau khổ kéo dài hàng thập kỷ.
Cuộc chiến "giải phóng" hay bi kịch huỷ diệt?
Dưới danh nghĩa "giải phóng", miền Bắc đã phát động một cuộc chiến tranh toàn diện nhằm thống nhất đất nước. Nhưng cái giá mà dân tộc phải trả là không thể tưởng tượng được:
Hơn 3 triệu người tử vong—bao gồm cả quân lính và hàng triệu dân thường vô tội, những người chỉ mong sống một cuộc đời bình yên.
Kinh tế suy kiệt, cơ sở hạ tầng đổ nát—những cánh đồng, làng quê, thành phố bị bom đạn cày nát; tài nguyên quốc gia bị hao mòn nghiêm trọng.
Hàng triệu gia đình tan nát—những người mẹ mất con, vợ mất chồng, và hàng trăm ngàn người vượt biển trên những con thuyền mong manh, chỉ để chạy trốn khỏi cái gọi là "tự do".
Trong khi nhiều quốc gia như Đức, Hàn Quốc hay Trung Quốc-Đài Loan tìm cách đối thoại hòa bình để giải quyết chia cắt, Việt Nam lại chọn con đường máu lửa. Cuộc chiến tranh này không chỉ mang lại tổn thất không thể bù đắp, mà còn để lại những vết thương tâm hồn dai dẳng trong lòng dân tộc.
Bài học từ các quốc gia khác
Nhìn lại lịch sử của các quốc gia từng trải qua chia cắt, chúng ta có thể thấy những con đường khác, ít đau thương và hiệu quả hơn:
Đức: Thay vì đổ máu, Đông Đức và Tây Đức đã chọn con đường đàm phán hòa bình. Sự sụp đổ của bức tường Berlin năm 1989 là biểu tượng cho sức mạnh của sự hợp tác và lòng khao khát đoàn kết.
Hàn Quốc và Triều Tiên: Dù vẫn tồn tại mâu thuẫn sâu sắc, nhưng họ đã không lao vào chiến tranh, thay vào đó tập trung vào phát triển kinh tế và bảo vệ hòa bình nội địa.
Trung Quốc và Đài Loan: Dù đối lập về chính trị, cả hai vẫn ưu tiên giữ hòa bình, tạo điều kiện phát triển kinh tế và văn hóa.
Những quốc gia này chứng minh rằng chiến tranh không phải là con đường duy nhất dẫn đến thống nhất. Đối thoại, hợp tác, và lòng kiên nhẫn chính là chìa khóa để vượt qua chia cắt mà không làm tan vỡ những giá trị con người.
Cái giá của sự "thống nhất"
Hậu quả của ngày 30/4/1975 đã để lại những di chứng sâu sắc:
Khủng hoảng kinh tế: Các chính sách kinh tế tập trung và cải cách sai lầm đã khiến nền kinh tế miền Nam—từng là "hòn ngọc Viễn Đông"—sụp đổ, kéo cả đất nước vào vòng xoáy nghèo đói.
Chảy máu chất xám: Hàng triệu trí thức, giáo viên, bác sĩ, kỹ sư miền Nam đã phải rời khỏi quê hương, để lại một khoảng trống lớn mà hàng chục năm sau cũng chưa thể lấp đầy.
Nỗi đau chia ly: Ngày "thống nhất" ấy không mang lại niềm vui trọn vẹn, mà thay vào đó là sự chia rẽ kéo dài giữa người trong nước và cộng đồng người Việt hải ngoại. Một đất nước tưởng rằng sẽ đứng chung dưới một lá cờ, nhưng thực tế lại là "triệu người vui, triệu người buồn."
Suy ngẫm về trách nhiệm lịch sử và hòa bình
Ngày 30/4/1975 nên được nhìn nhận không chỉ qua lăng kính của người chiến thắng hay kẻ thất bại, mà là bài học đau thương về cái giá khủng khiếp của chiến tranh và sự phi lý của bạo lực. Nếu miền Bắc chọn con đường đối thoại thay vì chiến tranh, có lẽ hàng triệu sinh mạng đã không bị mất, hàng trăm ngàn gia đình không phải chia ly, và dân tộc Việt Nam có thể đã cùng nhau phát triển trong hòa bình và thịnh vượng.
Hơn bao giờ hết, thế hệ hôm nay cần phải đối mặt với lịch sử một cách chân thực và trách nhiệm, để không chỉ chữa lành những vết thương cũ mà còn ngăn chặn những bi kịch tương tự trong tương lai. Chúng ta cần đặt câu hỏi: Liệu ngày 30/4 nên trở thành biểu tượng của hòa bình và sự chữa lành?
Lời kết: Chỉ khi chúng ta dám nhìn thẳng vào sự thật và thừa nhận những tổn thương, Việt Nam mới có thể thực sự hòa giải và tiến lên một cách vững chắc. Lịch sử không phải là vũ khí để chia rẽ, mà nên là một cầu nối để đoàn kết. Hãy để ngày 30/4 không chỉ là một ký ức, mà còn là lời nhắc nhở về trách nhiệm và sự khao khát hòa bình.
Tôi trình diện "học tập cải tạo"
Ngày 30-4-75, tôi cùng một vài chiến hữu sắp sửa vào Bộ TTM để trình diện TrungTướng Vĩnh Lộc mới được bổ nhiệm làm Tổng Tham Mưu Trưởng thì nghe trên đài phát thanh lời tuyên bố của Tống Thống Dương văn Minh xin "người anh em phía bên kia hãy ngưng bắn và ... " chúng tôi cảm thấy có một sự đổ vỡ xen lẫn một sự hoang mang không biết tươnglai sẽ đi về đâu?
Suốt đêm 29 tiếng phi cơ trực thăng của Mỹ hạ cánh và cất cánh trên nóc tòa Đại sứ át hẳn tiếng súng lẻ tẻ nơi xa vọng về, đúng 6 giờ sáng ngày 30, việc di tản bằng trực thăng chấm dứt.
Vào khoảng gần trưa tiếng ken két của xích xe tăng địch vọng tới từ cầu xa lộ cùng với tiếng máy ầm ì của từng đoàn xe Molotova chở những bộ đội mang nón cối với những ánh mắt bỡ ngỡ khi nhìn thấy vẻ rộng lớn đẹp đẽ của Saigon. Một số người tò mò đổ ra hè phố, đây đó một vài lá cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng của MTGPMN được phất lên một cách lạc lõng thiếu hẳn sự hăng say nồng nhiệt của hồi tháng tám năm 1945 khi đoàn giải phóng quân từ chiến khu về trong những bộ quân phục tùy tiện, chân giầy, chân đất bước đi nhẹ nhàng theo nhịp điệu của những bản quân hành đầy tình yêu nước, mộc mạc và chân thành của cả một dân tộc cương quyết vùng lên để có được độc lập và tự do mà cho tới nay tôi vẫn còn bồi hồi xúc động mỗi khi được nghe những âm điệu của những bản nhạc "Anh em trong đoàn quân du kích, Du kích quân...", những tiếng hoan hô vang dậy và đoàn người vây quanh thăm hỏi, tiếp tế bánh kẹo nước uống rồi cùng tham gia cuộc diễn hành với những chiến sĩ giải phóng quân, thật là đúng với lời ca "Đoàn quân đi giữa sóng mến thương muôn người trìu mến...; nhưng vào giờ này bản nhạc "Giải phóng Miền Nam" được coi như là quốc ca của Chính phủ lâm Thời Miền Nam Việt Nam cùng với bản " Tiến về Saigon" với âm điệu rùng rợn của nó luôn luôn là nhạc nền trong các loa phóng thanh được gắn khắp nơi trong thành phố.
Những con người được mệnh danh là "cách mạng 30 tháng 4" bắt đầu xuất hiện với mảnh băng đỏ quấn trên cánh tay, thường là những thành phần du thủ du thực lang thang bụi đời mượn gió bẻ măng, chúng lọt vào những cơ sở của chính phủ, của quân đội chiếm đoạt những xe cộ hoặc vũ khí rồi đi quậy phá, những xe moto của cảnh sát chạy lung tung trên đường phố, thậm chí cả xe tăng cũng bị đem ra tập lái trên đường quẹt cả vào những xe du lịch bỏ lại bên lề đường, người dân chẳng ai thèm đếm xỉa tới bọn chúng, ai ai cũng còn hoang mang lo lắng cho ngày mai.
Một số anh chị em sinh viên đã tự động đứng ra giữ vai trò trật tự lưu thông tại những nơi bị kẹt xe cũng là một điều đáng ghi nhận. Chiếc xe jeep của quân đội tôi để trước cửa nhà cũng được các vị "cách mạng tháng tư" tự động tới lấy đi, tôi theo dõi tin tức trên đài phát thanh cũng như những tin do các bạn bè còn liên lạc được , đài truyền hình đã ngưng hoạt động, và cùng nhau đi trình diện tại các địa điểm được ấn định tại các trường học thường thường là để khai lý lịch cá nhân, trong dịp này tôi thấy phần nhiều những câu hỏi xoay quanh việc anh có phải là đảng viên đảng Dân chủ của tổng thống Thiệu không, có nhiều từ trong bản khai đánh máy không có dấu làm chúng tôi hiểu lầm như "bản thân" có người lại hiểu là "bạn thân" nên đã điền vào một lô tên những ông bạn thân quen , thế nào là "tư liệu sinh hoạt", "tư liệu sản xuất"... một cái máy may có thể vừa là tư liệu sinh hoạt vừa là tư liệu sản xuất , thế nào là "tội ác đã làm"...đây cũng là dịp để những phóng viên của báo Quân đội nhân dân ghi nhận những cảm tưởng của những sĩ quan VNCH, phần lớn đều mang một tâm sự cay đắng, tấm tức vì không may là nạn nhân của một giải pháp chính trị, chúng tôi được biết tên một vài nhân vật như Trần văn Trà, chủ tịch Ủy ban quân quản thành phố, Cao đăng Chiếm...nói chung cuộc tiếp súc được diễn ra trong bầu không khí tương đối có "văn hóa"., họ có ý muốn trấn an chúng tôi bằng những câu trả lời vu vơ kèm theo những nụ cười có vẻ "thân thiện" và số phận của chúng tôi được thông báo là sẽ có chính sách riêng, ai nấy ra về với vẻ mặt băn khoăn trong sự vui mừng của vợ con đứng tụ tập ngoài cổng vì lo rằng vào trình diện rồi bị nhốt luôn.
Đầu tháng sáu, qua đài phát thanh và truyền hình đã hoạt động trở lại, chúng tôi nhận được lệnh trình diện tại khu Đại Học xá Minh Mạng từ Thứ Sáu 13 tháng Sáu đến hết ngày Chủ nhật 15 tháng sáu, mang theo tiền ăn trong một tháng , mùng mền và áo mưa, trong tâm trạng dứt khoát muốn biết tương lai mình sẽ đi về đâu, tôi và Đ/T Nguyễn minh Tiên cùng nhau ra bến xe Lam đi trình diện ngay hôm đầu tiên mặc dù đó là ngày thứ sáu 13, một ngày xui xẻo, một số trình diện trễ hơn vì còn muốn ăn Tết Đoan Ngọ xong đã.
Sau khi ghi tên vào danh sách, chúng tôi ngồi chờ các bạn khác lần lượt tới, không khí mỗi lúc trở nên náo nhiệt hơn, bạn nào cũng tay sách hành lý như đi du lịch, có anh nói đùa cứ như mình đang ở Air Terminal chuẩn bị làm thủ tục xuất ngoại, một lát sau chúng tôi được gọi tên, giao nộp hết giấy tờ tùy thân: thẻ kiểm tra, thẻ sĩ quan, bằng lái xe ... , đóng tiền ăn cho 3 ngày đầu, rồi cùng nhau lên lầu chia nhau những phòng trống, khi lên cầu thang tôi bật phì cười khi nghe gọi tên " anh Trần- Cẩm-Hương", tôi vô cùng ái ngại cho số phận của vị Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân của QLVNCH. Tôi ở cùng phòng với Tướng Lâm văn Phát, tôi chưa bao giờ được gặp ông mặc dù biết ông là bào huynh của anh Lâm văn Phiếu, một bạn cùng quân chủng KQ, ông ta than phiền rằng chế độ nào ông cũng bị ở tù, ông đề nghị chúng tôi gọi ông là "anh Ba" cho có vẻ thân mật hơn.
Sáng hôm sau khi mở mắt giậy tôi thấy ê ẩm cả ngưòi, thì ra mình chưa quen nằm trên sàn nhà bao giờ, đến trưa có nhà thầu trong Chợ lớn đem cơm chiên tới , chúng tôi ngồi ăn hai bên chiếc bàn dài, tôi chỉ nhớ là cơm ăn đầy sạn cát nuốt không vô, nhà thầu nói đó là gạo của Cách mạng phát, hệ thống vệ sinh không ai chăm sóc , nước chảy suốt ngày đêm, chúng tôi không đươc liên lạc với bên ngoài. Các bạn khác lần lượt trình diện trong những ngày kế tiếp cho tới đúng 12 giờ đêm chủ nhật 15 tháng sáu chúng tôi được lệnh tập họp, điểm danh rồi leo lên những chiếc xe vận tải Molotova bít bùng, đoàn xe di chuyển trên những phố đêm vắng tanh của Saigon , chúng tôi ai cũng trong tâm trạng không biết mình sẽ đi về đâu? ...
Qua những lỗ thủng nhỏ của vải bạt tôi hồi hộp theo dõi lộ trình của đoàn xe trên những đường phố thân quen, đường Hồng Thập Tự, Đinh tiên Hoàng, Hàng Xanh gần nhà tôi, chắc giờ này các con tôi đang ngủ say, còn vợ tôi chắc còn trằn trọc lo lắng cho tôi, rồi xa lộ Biên Hòa, đoàn xe vào căn cứ Long bình, chúng tôi nghĩ chắc là đến nơi rồi, nhưng sao thấy đoàn xe cứ chạy lòng vòng hoài cả giờ đồng hồ rồi lại đi ra xa lộ trực chỉ hướng Đalat.
Cho đến lúc tờ mờ sáng đoàn xe vượt qua ngã ba đi Gia kiệm, Đalat và lây hướng đi Phan thiết, đến một khoảng trống không có nhà cửa, đoàn xe dừng lại cho chúng tôi xuống bên lề đường làm vệ sinh cá nhân, mấy tên "chiến sĩ lái" cũng túm tụm lại hút thuốc và tán dóc, tôi nghe loáng thoáng chúng phê bình con gái Saigon không biết thổi cơm, có thể chúng nói đúng vì đã lâu lắm rồi còn ai ở Saigon lại thổi cơm theo kiểu dã chiến với ba cục gạch và nhóm bếp bằng một mẩu giây quai dép râu mà chúng vẫn thường làm.
Đoàn xe lại di chuyển, qua ngã ba Ông Đồn lấy hướng đi Bà Rịa, tới Long giao khoảng 7 giờ sáng, chúng tôi bị lùa vào một doanh trại cũ của QLVNCH., và chia ra từng tiểu đội gọi là A, bốn A thành một trung đội gọi là B, đại đội gọi là C.
Mỗi B được ở một căn nhà tiền chế bằng gỗ, nền đất trống chơn, dài khoảng 20 mét, rộng 5 mét, chỉ có hai lối ra vào hai đầu không có cánh của, mỗi người được phát một tấm nylon thay chiếu, B trưởng của tôi là một vị tuyên úy công giáo, cha Thịnh, A trưởng của tôi là anh Trần cửu Thiên, công việc đầu tiên là ổn định chỗ ở, làm sạch sẽ quanh lán trại, mỗi B phải cắt người đi đào hố vệ sinh, luân phiên khiêng nước cho nhà bếp và luân phiên nấu cơm cho cả C, tổng cộng có 6 B, quân số khoảng 240 đại tá, anh C trưởng là anh Cao văn Phước thay mặt cho tất cả các anh em nhận chỉ thị của bộ chỉ huy trại.
Long giao có một độ cao trên mặt biển vài chục mét nên giếng lấy nước đều sâu thăm thẳm, phải dùng poulie để kéo nước, các anh H.M.Quang, Võ v. Hạnh, Trực người khá đậm đà được làm ngựa kéo nước, các anh Kiểm (tỉnh trưởng) to con và đen xậm như người Miên cùng anh Trần cửu Thiên chuyên khiêng nước cho nhà bếp, chúng tôi được hướng dẫn cách thức nấu cơm bằng chảo gang cho hàng trăm người ăn, mới đầu thì cũng có lúc khê lúc sống, gạo "Đại Mễ" do Trung Cộng viện trợ bị mọt gần nửa, khi thả vào chảo để vo nổi lên trắng xóa cả mặt chảo, không còn chất dinh dưỡng, còn nấu canh thì rất đơn giản, chỉ một gói mì ăn liền chút muối thả vào chảo nước đun sôi là xong, lâu lâu cũng có bắp cải hoặc cá, thịt heo, vài tuần sau đã xuất hiện triệu chứng phù thũng, lấy tay bấm vào da thấy lõm hẳn xuống, mắt cá chân sưng lên, chúng tôi nói đùa là bị bệnh phồn vinh giả tạo, riêng "anh" Cẩm Hương dành riêng một góc phòng, không biết anh C trưởng Cao v. Phước kiếm đâu được một vài tấm vải bạt quây lên thành một căn phòng nhỏ cho "anh" có một chút riêng tư, vài ngày sau "anh" bị đưa đi một nơi khác cùng với Đại tá Cảm, vị cựu chỉ huy trưởng của trường Sĩ quan trừ bị Thủ đức đã về hưu từ lâu nay sức khoẻ không được tốt lắm, tôi thấy Người thường nằm trên võng phe phẩy quạt và không phải lao động.
Thời khóa biểu hàng ngày như sau: 5.00 dậy 5.15 đến 5.30 tập thể dục 7.00 lao động 10.30 ăn trưa 13.30 lao động 16.30 nghỉ, ăn cơm 19.00 sinh hoạt 21.00 tắt đèn
Chúng tôi bắt đầu lao động lai rai, ngày hai ba giờ cuốc đất , đánh luống trồng rau muống, săn nhặt những đồ dùng như ca, gà mèn, thìa trong những khu nhà bỏ trống , có một hôm A3 của tôi được lệnh đi ra ngoài kiếm củi về cho nhà bếp, bị tù túng khá lâu nên chúng tôi rất vui thích thở hít không khí tự do, và đặc biệt là trại "bồi dưỡng" cho mấy miếng thịt heo kho , trên quốc lộ vắng vẻ thỉnh thoảng có một vài người bán chuối lăn bột chiên bên đường hương thơm ngào ngạt nhưng chúng tôi đã được hướng dẫn là không được liên hệ với dân nên đành lặng lẽ nhìn với đôi mắt đầy thèm thuồng, tới một khu rừng ven đường, chúng tôi đi lượm những cành khô, đến chiều mỗi người một bó vác về trại. Một vài tối chúng tôi được đi coi phim với những đề tài tuyên truyền cho cách mạng như : - HCM của chúng em, - Hà nội bản hùng ca nói về 12 ngày đêm Mỹ ném bom Hà nội tháng 12 năm 72, - Nguyễn thái Bình một sinh viên VN du học tại Mỹ đã ý thức được ý đồ dã man của Mỹ đã đi thuyết trình tại nhiều tiểu bang, khơi mào cho tinh thần phản chiến tại Mỹ, -1-5-73 ngày vui lịch sử chiếu lại ngày diễn binh quan trọng sau khi hiệp định Ba lê được ký kết, - Nổi Gió nói về tâm trạng của một sĩ quan trong quân đội Saigon sau khi được Bác và Đảng "soi sáng" đã ngầm theo cách mạng ám sát cố vấn Mỹ rồi trốn ra bưng...
Có một điều làm chúng tôi ngạc nhiên là hôm sau buổi chiếu phim, các cán bộ quản giáo tập họp chúng tôi lại và nói:" cách mạng cho các anh xem phim là để học tập chứ không phải để giải trí, vậy các anh hãy viết bài thu hoạch nói về cảm nghĩ của các anh, nộp cho Trại để đánh giá kết quả"
Lúc bấy giờ chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác, thật ra một số lớn chúng tôi đâu có chú ý gì đến nội dung phim đâu, vì đây là cơ hội hiếm có để gặp nhau nên chúng tôi thường hỏi thăm và cho nhau biết những tin tức nhiều hơn là nhìn lên màn ảnh, nhưng rồi mỗi người đóng góp vào chúng tôi cũng hoàn thành được bản "thu hoạch" với nội dung theo ý muốn của ban chỉ huy đã gợi ý. Ai ai cũng cố gắng, nhịn nhục cho qua thời gian một tháng để rồi còn về lo việc gia đình., lâu lâu, chúng tôi lại phải đóng tiền gọi là để thêm vào ẩm thực, hoặc mua hạt giống rau muống, và dần dần một số các anh ở các nơi khác cũng bị đưa tới Long Giao., như các anh Chiếu (quan tòa) ở vùng 4, Từ Vấn..., anh Bảy Điển và anh Phú biết về Kỹ thuật Điện lo về nhà máy phát điện và mắc giây điện cho các buồng, tôi biết chút ít về điện tử mỗi tối thường được "hộ tống" đi điều chỉnh những máy truyền hình họ gọi là "ci nê hộp" tại các cơ quan, phần lớn họ không biết sử dụng những nút vặn, điện thế lại không đều nên hình ảnh lúc có lúc không, lúc đổ nghiêng hoặc không biết thiết trí ăng ten.
Khi hết thời hạn một tháng , chúng tôi hồi hộp chờ đợi khi được tập họp để rồi ngẩn ngơ nhìn nhau lúc được thông báo là ở ngoài nhân dân không yên tâm vì các anh chưa được học tập và cũng để bảo vệ sinh mạng cho các anh, ở ngoài nhân dân đang thù ghét các anh, nên bắt đầu tuần tới trại sẽ bố trí cho các anh học tập để có điều kiện hiểu rõ chính sách của cách mạng đôi với những sĩ quan trong quân đội Saigon, tuy nhiên cách mạng hiểu rõ tâm trạng các anh cần phải liên lạc với gia đình, vì vậy các anh được viết thơ cho vào bao thơ bỏ ngỏ, cách mạng sẽ chuyển đến gia đình các anh, địa chỉ của trại là : 7590/HT/L16/T2, số nhà 12., tất cả các máy thu thanh mang theo đều phải giao nộp cho trại bảo quản, trại sẽ giao cho anh C trưởng một máy để cho các trại viên nghe tin tức của cách mạng .
Tối hôm ấy, tôi nghe nhiều tiêng thở dài tức tưởi, ấm ức vì đã ngây thơ để bị đánh lừa. Mỗi buồng được phối trí lại cho tiện viêc học tập, buồng tôi mang số 12, anh B trưởng mới là anh Trí (Đ/tá thuộc Bộ Xã hội), buồng phó là anh Dư thanh Nhật, có hai tổ học tập: Tổ 1 do anh Trí và anh Bảy Điển gồm A1 và A2, tổng số 20 người. Tổ 2 do anh Nhật và anh Thiên gồm A3 và A4, tổng số 20 người .
Thời khóa biểu như sau: Mỗi ngày học 6 giờ : sáng 3, chiều 3. Một tuần học 5 ngày, 1 ngày lao động, khi căng thẳng (thiếu nước, củi ...) học 4 ngày. Vấn đề nước rất là thiếu thốn vì có lúc giếng bị cạn và mùa mưa chưa đến, chúng tôi phải tiết kiệm nước đến nỗi với một lon Guigoz nước đầy có đục một lỗ nhỏ síu và một thau hứng dưới chân chúng tôi có thể vừa tắm gội và giặt quần áo luôn!!!
Chương trình gồm một số bài căn bản như: - Âm mưu của đế quốc và thất bại của tay sai trong những năm vừa qua - Ngụy quyền là tay sai của đế quốc Mỹ và là kẻ thù của dân tộc Việt Nam - Quân Ngụy là công cụ của đế quốc Mỹ - Đế quốc Mỹ và tay sai đã cố gắng hết sức trong cuộc xâm lược Việt Nam nhưng đã liên tiếp thất bại và cuối cùng thất bại hoàn toàn - Nhìn của cách mạng về thất bại của đế quốc Mỹ. - Truyền thống của dân tộc Việt Nam - Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã thắng lợi hoàn toàn - Chính sách và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam hiện nay - Lao động là vinh quang - Chính sách của cách mạng đối với sĩ quan chính quyền Saigon cũ ra trình diện và trách nhiệm trước cách mạng nhân dân và thái độ cần có của họ .
Mỗi bài gồm phần chuẩn bị, lên lớp, thảo luận tại tổ và bản thu hoạch, thời gian từ hai cho tới ba tuần lễ cho mỗi bài. Nơi học là một hội trường rộng chúa khoảng 300 người không có ghế, chúng tôi săn nhặt những thùng đạn bằng sắt loại dùng cho đại liên 30 có quai sách làm ghế ngồi rất tiện lợi, lại có thể dùng đựng tài liệu học tập và cho nó cái tên là "samsonite" cho có vẻ lịch sự. Hệ thống âm thanh của họ rất đơn giản ; chỉ một máy thu thanh bán dẫn do Hungary viện trợ chạy pin thường, có gắn thêm hệ thống interphone và hai loa sắt nhỏ treo ở cuối phòng, máy đặt trên bàn trước mặt giảng viên, dùng ngay loa của máy làm micro, giờ nghỉ có thể chuyển sang nghe các đài phát trên hệ AM nên rất tiện dụng tại những nơi không có điện.
Giáo viên chính là một chính trị viên cấp trung đoàn tên Bình, người miền Bắc, khoảng 40 tuổi, ăn nói khá chững chạc, có pha lẫn đôi chút thiện cảm, hấp dẫn người nghe, đôi lúc chúng tôi được nghe đọc tin tức trong báo Nhân Dân, hoặc dự những buổi nói chuyện của "cán bộ cấp cao" như Dương thành Thảo phát ngôn viên của chính phủ lâm thời Miền Nam VN đến nói về Hiệp định Paris
Xen lẫn vào những buổi học tập là viết đi viết lại nhiều lần những bản lý lịch, mỗi lần lại có thêm những mục mới phải bổ sung, như viết về những "việc lớn" đã làm, một số câu hỏi về định nghĩa thế nào là việc lớn được nêu lên, những việc ích quốc lợi dân về những lãnh vực nào vân vân và vân vân, cứ bàn cãi hoài chẳng đi được đến kết luận cụ thể nào cả, khiến cho anh cán bộ quản giáo sốt ruột đưa ra một định nghĩa xanh rờn: đấy là những tội ác mà các anh gây ra cho nhân dân, đấy là những chiến công, những huy chương những việc các anh đã làm trong thời gian phục vụ trong quân đội; để "bồi dưỡng" chúng tôi được chung tiền mua hàng tại "căng tin" một hình thức quân tiếp vụ, phần lớn đơn đặt hàng là những hũ tương chao, kẹo đậu phộng, mì gói, tàu vị yểu, đường tán, nhưng cũng phải vất vả cử người đi ra xếp hàng từ sáng sớm tại Liên trại, rồi mang về phân phối lại cho anh em, Đ/tá Lương Chi ( thiết giáp) là người rất tích cực lo cho các bạn trong công tác này
Để tinh thần bớt căng thẳng trong thời gian học tập, ban chỉ huy trại lại đem dến mấy cây đàn mandoline để các anh giải trí, thật cũng nực cười là phải lục tìm trong trí nhớ những bài hát thuở xa xưa hồi còn đi học, hồi còn là hướng đạo sinh, thậm chí cả những bản hồi cách mạng tháng 8 như : Ai yêu Bác HCM hơn chúng em nhi đồng, HCM muôn năm, Đời sống mới, Nhớ chiến khu, Diệt phát xít ..., tuyệt đối không có "nhạc vàng".
Một đôi khi có một vài anh nón cối, đứng tuổi có vẻ như những cấp sĩ quan cao cấp (họ không bao giờ đeo lon trên cổ áo) tới quan sát những sinh hoạt của trại, đây là dịp để chúng tôi có thể dò hỏi về chính sách cũng như thời gian học tập và những câu trả lời lại càng làm chúng tôi thêm thắc mắc : "các anh rồi cũng sẽ về sau khi học tập thôi" và thêm một câu hơi mỉa mai" nhưng không có làm Đại tánữa", hoặc rằng "thời gian học tập không có lâu hơn thời gian các anh phục vụ trong quân đội Saigonđâu", hoặc rằng "nếu muốn diệt các anh, chúng tôi đã làm gọn từ lâu rồi". Có anh bạn không biết lượm được tin tức từ đâu nói rằng phải học tập ba năm như hồi 54 khi VC đối xủ với những thành phần chế độ cũ còn ở lại, làm cho các cuộc bàn cãi thêm sôi nổi sao mà lại lâu đến thế, và anh bạn đáng thương kia bị anh em sỉ vả cho một mách vì đã đưa ra một tin tức chẳng có phấn khởi chút nào!!!, tuy nhiên cũng có một tin làm chúng tôi vui xen lẫn buồn bực là Việt Nam đã được chính thức gia nhập Liên Hiệp Quốc, vui là vì nước mình được cộng đồng thế giới công nhận, buồn là vì việc này lẽ ra mình phải thực hiện được.
Những hôm lên hội trường là những ngày anh em ở các khu khác có dịp gặp nhau, có những bạn Phế Binh cụt cả hai chân được các bạn đồng đội khiêng tới lớp thay vì phải ngồi trên tấm gỗ có bánh xe nhỏ khó mà có thể di chuyển được trên những con đường đất gồ ghề, cảnh tượng này gây nhiều xúc cảm và bất mãn về sự tàn nhẫn của VC đối xử với Thương Phế Binh của chúng ta, sự cay đắng còn được thể hiện qua những lời phát biểu của những học viên bị "chỉ định" đễ phát biểu về cảm tưởng sau khi học tập như câu nói bất hủ của Đ/T Thẩm nghĩa Bôi, Thiết giáp, khi kết luận : Đại tá Thẩm nghĩa Bôi từ nay không còn nữa, Đ/T Thẩm nghĩa Bôi đã chết rồị !! như để chứng tỏ chúng tôi đã được soì sáng đến nỗi quên cả quá khứ.
Cách mạng có những sáng kiến thật kỳ quái, gây khó khăn để đánh giá "nhiệt tình" của chúng tôi trong việc học tập, như trong những tối phải viết bản thu hoạch để hôm sau nộp, thỉnh thoảng lại cắt điện để xem chúng tôi khắc phục khó khăn như thế nào? tôi chưa bao giờ phải đeo kính mà đành phải chờ mượn kính của các anh bạn mới nhìn được chữ viết dưới ánh sáng lù mù chập chờn của ngọn đèn cầy. Thời gian cứ từ từ trôi đi, mỗi tối tôi thường ra sân nhìn về phía Saigòn rực ánh sáng ở một góc trời mà tự hỏi không biết vợ con mình xoay sở ra sao trong cuộc sống mới này, tin tức qua thư từ chỉ toàn những lời lẽ giống nhau học tập tốt, lao động tốt rồi cách mạng sẽ khoan hồng cho về, những nét chữ quen thuộc thân yêu giúp tôi rất nhiều trong việc can đảm chịu đựng, chấp nhận mọi thử thách trong những ngày sắp tới.
Buổi chiều ngày 23 tháng mười, chúng tôi được lệnh chuẩn bị chuyển trại, đến khuya chúng tôi lên xe tải di chuyển về hướng Saigon, ai cũng mang một tâm trạng vui vì chắc rằng học tập xong rồi mình đi về thôi, xe chúng tôi không bị bít bùng như trước nên tôi ướm hỏi anh C trưởng Cao văn Phước (quân vận) một người đàn anh tôi rất quý trọng đã hành xử rất khéo và đứng đắn trong trách vụ đại diện cho các bạn học tập, "liệu mình có được về không anh ?", anh đăm chiêu nhìn mảnh trăng cuối tuần chậm rãi trả lời:"chúng ta đã nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm", nhưng mãi đến 13 năm sau tôi mới ra khỏi đường hầm!!
Khi đến Tam hiệp đoàn xe tách về phía Biên Hòa và chúng tôi tới một nơi toàn nhà mái tôn: Trại SUỐI MÁU, cái tên mới nghe gây những ấn tượng khủng khiếp...
Tới đây tôi xin tạm chấm dứt giai đoạn Long Giao mà nhà thơ quân đội quá cố anh Thục Vũ đã để lại những vần thơ gây nhiều xúc cảm:
Chiều Long Giao đèo cao heo hút gió Nắng lưng đồi hẹn hò vương áng chân mây
và giai đoạn Suối Máu:
Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con Tình yêu em vẫn đong đầy nơi khóe mắt
Hàng năm cứ vào cuối Tháng Tư, khi cờ đỏ ngoài đường treo nhiều hơn và trong không gian rộ lên những tiếng loa đài oang oang về “Giải phóng Miền Nam”, lòng tôi lại hừng hực những kỷ niệm ran rát của buổi vào trại tập trung cải tạo.
Tôi không tài nào quên được những cảm giác đen như mõm chó mực trong buổi sáng ấy.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy viết lên những gì mình suy nghĩ là "ông chủ" này chết với bọn "đầy tớ nhân dân", và ngày nay thì tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần đọc báo, nghe đài lải nhải về “Ngày Giải phóng”, lòng tôi lại nóng bừng lên vì vết phỏng hai hòn.
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương rừng và gió núi. Công an “đột xuất” xông vào nhà tôi, mặt mày lăm lăm, đọc lệnh bắt rồi tức thì dẫn tôi đi trên con đường làng dài và lỗ chỗ đất với đá ba lát. Con đường này tôi đã quen đi lại gần 20 năm, nhưng lần này tất nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính đời tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học… tập cải tạo.
Tôi không kịp đi qua nhà bà con họ hàng kế bên để chào giã biệt như trước đây mỗi khi đi xa nữa.
Trong bộ đồ đang mặc không kịp thay, tôi cảm thấy mình bắt đầu cuộc đời tù nhân.
Dọc đường tôi thấy nhiều người đủ hạng tuổi, quần áo xất bất, nhìn tôi với ánh mắt thương cảm, và nhìn nhau xầm xì. Cái túi xách đựng vài bộ quần áo mà tôi đã chuẩn bị từ lâu cho ngày này ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay thật chặt, định phang một phát vào mặt tên công an rồi ra sao thì sao, nhưng hình ảnh những chiếc chiến xa tôi đã bỏ lại tại Ngã Bảy Chợ Lớn trước đó hai tuần lễ hiện ra trong đầu óc khiến tôi liên tưởng tới “tiên sinh” Từ Hải đã trót “bó tay về với triều đình” thì “phận mình ra sao” của một trong hàng triệu “ hàng thần lơ láo” cũng đành phải chấp nhận thương đau. Sau khi “đổi mới tư duy”, tôi lại bình tĩnh bước đi trước mũi súng AK 47 của cậu công an mặt non choẹt đến trại tập trung cải tạo còn mạng tên “Trung tâm Cải huấn” của chế độ cũ.
Ngày ấy, chốn lao tù đối với tôi là một nơi hoàn toàn xa lạ. Tôi bị bước vào qua cánh cửa dăng mắc đầy dây kẽm gai, và lọt tỏn giữa những người thoạt nhìn qua đã biết họ là “phe ta”.
Tôi trước đây phục vụ trong quân ngũ ở những miền rất xa nơi này, chưa một lần gặp mặt “đồng môn”, nhưng cùng cảnh ngộ với nhau cả nên rất “lạ mà quen”. Lòng tôi không lo sợ vẩn vơ cảnh “tù cũ hiếp tù mới”. Và quả thật như vậy.
Một kỷ niệm tôi nhớ mãi là trong buổi cơm tù đầu tiên. Tôi tạm ngưng nơi đây để ghi lời cảm ơn anh Lưu Hồng Điều (13 năm tù trên đất Bắc và đã về bên kia thế giới) đã để lại cho thằng em một tuyệt phẩm ngắn gọn nhưng ý nghĩa thật là trường thiên xã hội chủ nghĩa hiện thực tiểu thuyết. Câu chuyện đã 41 năm rồi mà nay hồi tưởng lại tôi cứ ngỡ như vừa xảy ra:
Trong bữa cơm tù đầu tiên ấy, sau khi được chia phần ăn gồm một chén cơm gạo mọt độn với cũ khoai lang khô mốc và một chén gọi là canh rau muống với muối, tôi nhìn sang phòng bên kia thấy anh Lưu Hồng Điều là người đồng hương nên chạy sang chào anh cũng đang cầm trên tay chén cơm cùng “tiêu chuẩn”. Thấy tôi, anh liền đưa ngón tay vừa chỉ vào chén cơm vừa lắc đầu nói với giọng ngao ngán:
“Tao đã trốn thoát mày được 20 năm nay, bây giờ mày lại chạy vào đây đeo bám lấy tao nữa!”
Tôi cũng như anh Điều là “Bắc ri cư 54” nên “tự hào” thấm thía hơn bạn đồng môn cải tạo dân Nam Kỳ là những người từ nào tới giờ chưa biết thế nào là cơm độn, một hạt gạo phải còng lưng cõng mấy lát khoai lang khoai mì dày trịch, to tổ chảng mà vì lẽ sinh tồn phải trợn mắt mà nuốt.
Kể cho hết chuyện “Tôi đi học... tập cải tạo” thì đến bao giờ cho hết. Tôi bèn ngưng nơi đây với ước mong rằng muôn đời con cháu mai sau sẽ không bao giờ phải đi “học tập cải tạo” để làm công dân xã hội chủ nghĩa như tôi nữa.