Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ
     Các chuyên mục 

Tin tức - Sự kiện
» Tin quốc tế
» Tin Việt Nam
» Cộng đồng VN hải ngoại
» Cộng đồng VN tại Canada
» Khu phố VN Montréal
» Kinh tế Tài chánh
» Y Khoa, Sinh lý, Dinh Dưỡng
» Canh nông
» Thể thao - Võ thuật
» Rao vặt - Việc làm

Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca
» Cần mời nhiều thương gia VN từ khắp hoàn cầu để phát triễn khu phố VN Montréal

Bản sắc Việt
» Lịch sử - Văn hóa
» Kết bạn, tìm người
» Phụ Nữ, Thẩm Mỹ, Gia Chánh
» Cải thiện dân tộc
» Phong trào Thịnh Vượng, Kinh Doanh
» Du Lịch, Thắng Cảnh
» Du học, Di trú Canada,USA...
» Cứu trợ nhân đạo
» Gỡ rối tơ lòng
» Chat

Văn hóa - Giải trí
» Thơ & Ngâm Thơ
» Nhạc
» Truyện ngắn
» Học Anh Văn phương pháp mới Tân Văn
» TV VN và thế giới
» Tự học khiêu vũ bằng video
» Giáo dục

Khoa học kỹ thuật
» Website VN trên thế giói

Góc thư giãn
» Chuyện vui
» Chuyện lạ bốn phương
» Tử vi - Huyền Bí

Web links

Vietnam News in English
» Tự điển Dictionary
» OREC- Tố Chức Các Quốc Gia Xuất Cảng Gạo

Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng

Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP



     Xem bài theo ngày 
Tháng Năm 2024
T2T3T4T5T6T7CN
    1 2 3 4 5
6 7 8 9 10 11 12
13 14 15 16 17 18 19
20 21 22 23 24 25 26
27 28 29 30 31    
   

     Thống kê website 
 Trực tuyến: 5
 Lượt truy cập: 24894944

 
Vietnam News in English 01.05.2024 10:06
Kỷ niệm 221 năm vua Quang Trung thắng giặc Tàu, lật lại trang sử Việt oai hùng càng khinh bỉ chính quyền CS nhu nhược
20.02.2010 14:27

Tỉnh Bình Định tổ chức trọng thể kỷ niệm 221 năm vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh đuổi quân xâm luợc phương Bắc.

Nhân dịp kỷ niệm 221 năm chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa của vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh đuổi quân xâm luợc phương Bắc, vào ngày mồng năm tháng giêng năm Kỷ Dậu, 1789, hôm nay tỉnh Bình Định tổ chức trọng thể lễ hội với sự tham dự của hàng vạn người dân địa phương và đại biểu từ các khu vực khác như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Nguyên. Tại Hà Nội, hôm nay hàng ngàn người dân cũng hướng về Gò Đống Đa tham dự lễ hội chiến thắng hào hùng do vua Quang Trung cùng toàn dân tạo nên.

Đại diện ban tổ chức đã nhắc đến công lao của 3 anh em nhà Tây Sơn, đặc biệt là của vị anh hùng dân tộc,vua Quang Trung đã chiến thắng trên 29 vạn quân Tàu , giành độc lập cho xứ sở.

Sau phần nghi thức tỏ lòng biết ơn những anh hùng và gợi lại những chiến công hiễn hách trong lịch sử ngăn chống giặc ngoại xâm,có nhiều trò chơi, biểu diễn nghệ thuật cổ truyền như múa lân, múa rồng, đấu võ, cờ người.

Quang Trung đại thắng quân Thanh

Bài này nói rất rõ chi tiết về trận Kỷ Dậu 1789 nổi danh trong lịch sử Việt Nam ta , nêu rõ được chiến thuật và diễn biến của trận đánh . Từ các sử liệu của Trung-Quốc và trong nước liên quan đến việc vua Quang Trung đại phá quân Thanh, nhân đó đính chính một vài điều về lịch sử.
Phiên dịch Cao Tông thực lục, chúng tôi rất lưu ý đạo dụ của vua Càn Long, liên quan đến việc quân Thanh bị tấn công tại thành Thăng-Long vào dịp đầu xuân Kỷ Dậu [1789]. Sự kiện lịch sử trọng đại này còn được chép trong các sách như Thanh thông giám, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, cùng Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái. Nhằm nhìn rõ vấn đề từ mọi hướng, xin chép lại các sử liệu nêu trên; để cuối cùng qua phần lời bàn, người viết cố gắng phân tích vấn đề, tìm tòi sự khác biệt đúng sai, với niềm hy vọng có thể thấy được sự thực.

Trận đánh thành Thăng-Long theo Cao Tông thực lục

Ngày 25 tháng Giêng, năm Càn Long thứ 54 [19/2/1789]

Tổng-đốc Lưỡng-Quảng Tôn Sĩ Nghị tâu rằng sau khi thành nhà Lê được thu phục, vị trí dải đất về phía nam thành tiếp giáp với đất giặc. Theo lời Lê Duy Kỳ báo, vào ngày mồng hai tháng giêng năm nay quân lính của viên Quốc-vương phòng thủ nơi này bị giặc đánh đuổi, bọn chúng rêu rao rằng sẽ trả thù rửa hận. Thần sai quan binh đến tiễu trừ, đánh bại bọn giặc. Rồi Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn Huệ thân tới, sợ hãi gan mật tê liệt, tay bế con nhỏ, cùng với mẹ chạy trốn qua sông Phú-Lương; khiến dân tình hoảng hốt, người trong nước rần rần chạy loạn. Thần cùng Ðề-đốc Hứa Thế Hanh lại đốc suất quan binh quyết tâm huyết chiến, nhưng không địch nổi, vì giặc quá đông, vây kín đại binh bốn phía. Từ đó Thần và Ðề-đốc Hứa Thế Hanh không thấy mặt nhau nữa, Thần phá vòng vây, tiến thẳng tới cầu nổi, ra lệnh Tổng-binh Lý Hóa Long qua sông để chiếm lấy bờ phía bắc. Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, chẳng may trướt chân rơi xuống nước.Thần ra lệnh Phó-tướng Khánh Thành quay đầu bắn súng điểu thương chặn địch, rồi mang binh từ từ theo cầu nổi tới bờ phía bắc, đọan rút về sông Thị-Cầu trú đóng. Một mặt cho người chạy đến vùng Lạng-Sơn, ải Nam-quan tìm mẹ con Lê Duy Kỳ; tạm trú bọn họ tại quan ải. Thần mang trọng trách không làm xong việc sớm, lần này lại bị giặc đánh chặn, xin được cách chức trị tội về việc điều binh sai lầm để làm răn.

Nay dụ các Quân Cơ Ðại-thần: Trẫm trước kia đã cho rằng Lê Duy Kỳ mềm yếu không có khả năng, xem ra trời đã ghét họ Lê nên không thể hỗ trợ được, mà dân tình An-Nam lại phản phúc khó tin; nên đã giáng chỉ dụ lệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc triệt binh. Nếu như Tôn Sĩ Nghị nhận được chỉ dụ bèn lập tức triệt hồi, thì ngày hôm nay đại quân đã về đến cửa quan ải rồi. Nay Nguyễn Huệ dám ra chặn đánh, nguyên do là Tôn Sĩ Nghị hy vọng Nguyễn Huệ sẽ hối lỗi đầu hàng để mọi việc được hoàn mỹ, nên chần chừ ngày giờ, mới xảy ra như vậy. Hiện tại vào tiết mùa xuân, tại nơi này mưa nhiều lắm chướng khí; nếu muốn cử đại binh cũng chưa phải lúc. Huống các tỉnh Quảng-Ðông, Quảng-Tây trước đây tiếp tục điều binh, thì đã ra lệnh đình chỉ; nay lại rầm rộ truyền hịch điều động, thì cũng không đáp ứng được tình hình khẩn cấp, mà lại khiến cho lòng người thêm kinh hãi. Nói tóm lại đem binh triệt hồi, vẹn toàn quốc thể là điều cốt yếu.

Tôn Sĩ Nghị là người thống suất toàn quân, không thể làm việc mạo hiểm; viên Tổng-đốc phá vòng vây để ra, hành động này rất đúng. Thứ đến, Hứa Thế Hanh là viên chức lớn với cấp bực Ðề-đốc cũng rất quan hệ; hiện nay chưa có tin tức, đang hết sức trông ngóng. Hai người phải lưu tâm thận trọng, đốc suất quan binh đến quan ải gấp. Theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh thì Lê Duy Kỳ đến quan ải vào ngày mồng 7 tháng giêng, hiện cho trú tại Nam-Ninh. Bàn về việc hành quân từ trước tới nay không phải mỗi lần ra quân đều thuận lợi, như các cuộc hành quân tại Tân-Cương, Tây-Lộ, cho đến Lưỡng Kim-Xuyên đều có những tổn thất nhỏ rồi mới thành công. Lần nầy Tôn Sĩ Nghị mang quân đến An-Nam đánh giặc thành công quá dễ, nay có sự tổn thất biết đâu đây chính là Nguyễn Huệ tự mang lấy mầm diệt vong vậy. Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh hãy mang quân ra cho vẹn toàn, đừng làm tổn thương quốc thể; tương lai có liệu biện việc này hay không do chính Trẫm thao túng, rồi sẽ từ từ quyết định. Còn việc Tôn Sĩ Nghị tâu xin cách chức trị tội; thì việc tổn thương này ngoài ý muốn, không phải do viên Tổng-đốc lầm lỡ mạo muội, tại sao lại tâu như vậy! Viên Tổng-đốc phải gia tăng trấn tĩnh để lo liệu việc triệt thoái, chớ nên hoang mang ý loạn, đó là điều hết sức quan trọng. Chắc bọn Nguyễn Huệ cũng không dám xâm phạm biên giới của Thiên triều, tuy nhiên dọc theo quan ải cần dàn binh lực để làm mạnh thanh thế và chuẩn bị việc tiếp ứng. Hiện theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh đã điều 1 ngàn quân tiến trước hợp với quân phòng thủ gồm 3 ngàn tên [1] , sẽ lo điều động thêm. Nay dụ Tôn Vĩnh Thanh hãy tính toán kỹ, nếu số binh lính không đủ dùng, thì có thể một mặt tiếp tục điều tại các doanh, một mặt tấu lên. Quân Quảng-Tây hiện đang triệt hồi, còn đạo quân Vân-Nam do ngả Tuyên-Quang An-Biên cũng phải triệt thoái gấp. Quân lính tại các doanh đồn trú tại Vân-Nam tương đối nhiều, nếu quân số dưới quyền của Phú Cương và Ô Ðại Kinh hiện nay không đủ dùng, thì đừng ngại lấy thêm quân từ các doanh để phòng thủ dọc biên giới, khiến cho thanh thế càng thêm mạnh mẽ. (Cao Tông thực lục quyển 1321 tờ 868-869).

Trận đánh thành Thăng-Long theo Thanh thông giám

Ngày mồng 5 tháng giêng:

Quân Thanh bị bại, Tôn Sĩ Nghị mang tàn quân chạy về bắc.

Vào cuối năm ngoái, quân của Nguyễn Huệ nước An-Nam vượt sông Gián-Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ [Lê Chiêu Thống]; lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch; ra lệnh Tổng-binh Trương Triều Long mang 3000 quân tăng cường cho các đồn Hà-Hồi, Ngọc-Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho Ðề-đốc Hứa Thế Hanh mang 1500 tên, tự đốc suất 1200 tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như o­ng, vây đồn 4 phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.

Vào canh năm ngày này [mồng 5] Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng 100 thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.

Ðề-đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Ðề-đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống-soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Ðề,Trấn; bèn ra lệnh Phó-tướng Khánh Thành, Ðức Khắc Tinh Ngạch mang 300 quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh 3000 tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng-binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng-binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị-Cầu.

Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng-binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó-tướng Na Ðôn Hành, Tham-tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri-châu Ðiền-Châu Sầm Nghi Ðống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc-vương An-Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.

Nguyễn Văn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. Ðề-đốc Ô Ðại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân-Nam xuất phát từ Mã-Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên-Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú-Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên-Quang, rồi lập tức lui vào trong nước. (Thanh thông giám, quyển 146, trang 4565-4567).

Khâm định Việt sử thông giám cương mục:

Hồi trống canh năm sớm hôm sau (mồng 5 tháng giêng), Văn Huệ xắn tay áo đứng dậy, đốc thúc bản bộ lùa quân rầm rộ tiến lên. Chính Văn Huệ tự mình đốc chiến, cho hơn trăm voi khỏe đi trước. Tờ mờ sáng quân Thanh lùa toán quân kỵ tinh nhuệ ồ ạt tiến. Chợt thấy bầy voi, ngựa quân Thanh đều sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn nhau. Giặc [2] lại lùa voi xông đến: quân Thanh trong cơn gấp rút, không cứu nhau được, ai nấy rút trong lũy để cố thủ. Bốn mặt đồn lũy quân Thanh đều cắm chông sắt, súng và tên bắn ra như mưa. Giặc dùng những bó rơm to để che đỡ mà lăn xả vào, rồi quân lính tinh nhuệ tiến theo sau. Kẻ trước ngã, người sau nối, thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu. Các lũy quân Thanh đồng thời tan vỡ và đều chạy. Giặc đuổi đến đồn Nam-Ðồng, thừa thắng ập lại giết chết. Quân Thanh bị chết và bị thương đến quá nửa. Thế Hanh, Tiên-phong Trương Sĩ Long và Tả-dực Thượng Duy Thăng đều chết. Sầm Nghi Ðống đóng đồn tại Loa-Sơn (tục gọi Ðống-Ða) bị một tướng khác của giặc đánh, quân cứu không có, Nghi Ðống phải tự thắt cổ mà chết. Toán thân binh của Nghi Ðống cũng tự ải chết theo đến vài trăm người. (Bản dịch của Viện sử học, tập 2, trang 846).

Hoàng Lê nhất thống chí:

Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. Ðoạn kén loại lính khỏe mạnh, cứ 10 khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cưỡi ngựa voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc-Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.

Vua Quang Trung liền sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái-thú Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại (Bản dịch của Nguyễn Ðức Vân và Kiều Thu Hoạch, trang 223-224).

Lời bàn của người dịch Cao Tông thực lục
Duyệt qua các tài liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau giúp người đọc có một cái nhìn mới về trận đánh của vua Quang Trung vào thành Thăng-Long với những điều đáng lưu ý sau đây:

1. Ðánh trước mặt và ngang hông cùng một lúc

Báo cáo của Tôn Sĩ Nghị trong Cao Tông thực lục không cho biết chi tiết về trận đánh, chỉ nói rằng “Quân giặc quá đông, vây kín đại binh bốn phía”. Ðây là lời báo cáo của một kẻ hoảng hốt, thấy có tiếng súng chung quanh rồi tưởng rằng đã bị vây chặt, thực ra chỉ là nghi binh mà thôi. Căn cứ vào Thanh thực lục và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, thì lực lượng chính của vua Quang Trung như hai quả đấm vung lên cùng một lúc để đánh gục đối phương, đó là các trận Ngọc-Hồi và Ðống-Ða. Rạng ngày mồng 5 tết, trận Ngọc-Hồi bùng nổ tại phía nam thành Thăng-Long, trong lúc quân Thanh đang dồn nỗ lực tiếp cứu, thì mặt trận phía tây bùng nổ tại Ðống-Ða. Quân Thanh bị đánh bất ngờ ngang hông, không có quân tiếp viện, Tri-phủ Ðiền-Châu Sầm Nghi Ðống phải thắt cổ tự vẫn. Sau khi chiến thắng tại Ngọc-Hồi và Ðống-Ða, quân ta “chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín”, quân giặc lớp chết, lớp đầu hàng; thành Thăng-Long được giải phóng trong ngày.

2. Ðính chính lịch sử về chiến thuật hành quân tại trận Ngọc-Hồi

Trong Hoàng Lê nhất thống chí, một bộ tiểu thuyết lịch sử của Ngô Gia Văn Phái viết theo lối chương hồi, đoạn văn trích dẫn ở phần trên nằm trong chương 14 với nhan đề:

Ðánh Ngọc-Hồi quân Thanh bị thua trận

Bỏ Thăng-Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài

Trong đoạn văn này, không kể đến chi tiết sai lầm về nơi chết của Sầm Nghi Ðống (y tự tử tại Ðống-Ða chứ không phải tại Ngọc-Hồi), Hoàng Lê nhất thống chí mang lỗi lầm chung của tiểu thuyết lịch sử [3] là viết hấp dẫn, nhưng nhiều khi không đúng với sự thực. Những người có chút kiến thức sơ đẳng về quân sự đều biết rằng đoàn quân “dàn trận hình chữ nhất ” rầm rộ tiến vào, mà “Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả” là một việc khó có thể xảy ra. Ngoài ra, chi tiết “Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. Ðoạn kén loại lính khỏe mạnh, cứ 10 khiêng một bức, lưng dắt dao ngắn. Hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cửi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc-Hồi”. Chúng ta tự hỏi rằng 10 người khiêng một bức, cho dù đồn giặc bằng phẳng như một sân đá banh (mà thực tế không thể có như vậy) cũng phải nhắc tấm ván lên khỏi mặt đất vài chục phân mới di chuyển được, giặc trang bị đầy đủ súng điểu thương, ống phun lửa; cứ nhắm chân mà bắn ắt phải có người bị thương, ngã xuống không khiêng được. Một bức ván với 30 quân sĩ (kể cả 20 quân tháp tùng) đã gặp khó khăn như vậy, thì toàn bộ 20 bức ván gặp khó khăn đến nhường nào, và làm sao có thể xung phong mạnh mẽ, chế ngự đồn giặc được!

Nhà quân sự giỏi về “công đồn” có thể thấy được ở chỗ: lập kế hoạch sát với thực tế, gây sự bất ngờ, thi triển đồng loạt, ít tổn thất, hiệu năng cao, hỏa lực phía trước mạnh. Sử liệu do hai bộ sử Thanh thực lục và Khâm định Việt sử thông giám cương mục của triều Nguyễn nước ta đã mô tả rõ nét thiên tài của vua Quang Trung về chiến thuật công đồn với đủ những yếu tố nêu trên. Thanh thực lục chép:

“Vào canh năm ngày này (mồng 5) Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng 100 thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau (Ngọ thời Nguyễn quân loạn phóng hỏa tiễn, hỏa châu, tịnh dĩ hòa cán tác đại thúc, loạn cổn nhi tiền, khinh binh tùy chi), trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.”

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng chép tương tự: “Hồi trống canh năm sớm hôm sau (mồng 5 tháng giêng), Văn Huệ xắn tay áo đứng dậy, đốc thúc bản bộ lùa quân rầm rộ tiến lên. Chính Văn Huệ tự mình đốc chiến, cho hơn trăm voi khỏe đi trước. Tờ mờ sáng quân Thanh lùa toán quân kỵ tinh nhuệ ồ ạt tiến. Chợt thấy bầy voi, ngựa quân Thanh đều sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn nhau. Giặc lại lùa voi xông đến: quân Thanh trong cơn gấp rút, không cứu nhau được, ai nấy rút trong lũy để cố thủ. Bốn mặt đồn lũy quân Thanh đều cắm chông sắt, súng và tên bắn ra như mưa. Giặc dùng những bó rơm to để che đỡ mà lăn xả vào, rồi quân lính tinh nhuệ tiến theo sau. Kẻ trước ngã, người sau nối, thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu. Các lũy quân Thanh đồng thời tan vỡ và quân Thanh đều chạy.”

Hai sử liệu từ hai nước Hoa, Việt đều xác nhận vua Quang Trung dùng voi để chống lại kỵ binh. Ngựa sợ voi là chuyện tự nhiên, lính tháp tùng trên lưng voi từ trên cao khống chế quân kỵ một cách dễ dàng, lại còn có sức mạnh đàn áp tinh thần địch về mặt tâm lý. Việc sử dụng voi đúng chỗ hiện diện của kỵ binh, chứng tỏ đạo quân vua Quang Trung hơn hẳn về mặt tình báo.

Việc dùng rạ (hòa cán) bó thành bó lớn như bánh xe lăn khổng lồ (dùng để cán sửa đường lộ), bó nọ nối liền bó kia cùng lăn đều, tạo thành bức tường di động giúp quân lính núp đằng sau tương đối an toàn, vừa tiến lên vừa bắn, để đánh chiếm đồn giặc là một sáng kiến tuyệt diệu; xin được phân tích như sau:

Vật liệu lấy tại chỗ: Bấy giờ vào đầu tháng giêng, nhà nông tại vùng xung quanh Ngọc-Hồi có thể còn phơi rạ ngoài đồng, hoặc làm đụn rạ trong vườn để dành dùng đun nấu, cho bò ăn, hoặc đánh tranh lợp nhà. Rạ là vật liệu rất cần thiết cho nông dân, ở nhà quê đâu đâu cũng có. Còn dây buộc là tre non chẻ ra, hoặc cây mây; hầu như có sẵn trong mọi vườn.

Dễ bó thành bó tròn lớn: Dịch giả lớn lên từ nhà quê, đã nhiều lần thấy nông dân bó rạ với cung cách dùng hai đòn xọc cắm sâu xuống đất, cách nhau khoảng 1 mét làm điểm tựa, chất rạ vào giữa hai đòn xóc lên cao đến đỉnh đầu, đứng lên trên đống rạ nén chặt, khi đã ưng ý, kéo những sợi dây đã đặt sẵn dưới đống rạ lên rồi buộc chặt. Những nông dân có kinh nghiệm bó những bó rạ chắc chắn, lăn cách nào cũng không tung ra. Dịch giả cũng thấy tận mắt tại nông trại ở Mỹ, có những bó cỏ cho ngựa ăn, bó chặt cao quá đầu người; lính Việt-Nam phần lớn xuất thân từ nông dân, nếu ba bốn người hợp lực có thể bó những bó lớn như vậy.

Khi khai triển đội hình hàng ngang, những bó rạ được lăn đều, nhanh chậm tùy theo hiệu lệnh của cấp chỉ huy.

Nếu bó rạ lớn được nhúng nước, có khả năng ngăn cản đạn nhỏ của súng điểu thương, là loại súng quân Thanh được trang bị. Quân ta khom lưng tiến sau bó rạ tương đối an toàn, ngoài việc lăn rạ còn có khả năng bắn phủ đầu đối phương.

Hãy tưởng tượng hàng trăm bó rạ tạo thành bức thành di động, dù súng bắn vẫn lăn đều lên; lại còn có khả năng bắn trả lại; lúc lăn đến gần, quân Thanh ắt phải kinh hoàng mà bỏ chạy.

Ngoài ra cần phải nhắc thêm, trong buổi sáng vua Quang Trung cho voi quần khiến kỵ binh giặc tháo chạy, rồi quân ta dùng “hỏa châu, hỏa tiễn” bắn tới tấp lúc xung phong vào giờ ngọ, thật đúng bài bản “tiền pháo, hậu xung”, có thể ứng dụng bài học này cho ngay cả chiến tranh trong thời hiện đại!

Rất tiếc những bộ sử ngày nay như Việt-Nam sử lược của cụ Trần Trọng Kim [4] và Ðại cương lịch sử Việt Nam [5] của nhà xuất bản Giáo dục Hà-Nội vẫn dùng sử liệu “ghép ván có phủ rơm” của bộ tiểu thuyết chương hồi Hoàng Lê nhất thống chí, mà không đề cập đến “bó rạ lăn tròn”được chép trong sử nhà Thanh và sử triều Nguyễn. Thiết tưởng lịch sử là một bộ môn trong khoa học nhân văn, cần được nghiên cứu một cách khoa học không thiên kiến; lại được biết trong nước có Viện Lịch sử Quân sự, nếu Viện này cho trắc nghiệm bằng cách tập trận về hai chiến thuật nêu trên, thì sẽ thực sự thấy được đáp án.

3. Chặt đứt cầu nổi bắc qua sông Hồng

Ðể cầu sự an toàn cho bản thân, trong lúc hoảng hốt Tôn Sĩ Nghị ra lệnh chặt cầu phao bắc qua sông Hồng-Hà, khiến hầu hết các Ðề Trấn và quân lính dưới quyền kẹt lại tại thành Thăng-Long rồi bị giết, bị bắt. Vua Càn Long không trực tiếp đưa vụ này ra ánh sáng. Vị vua già có hơn nửa thế kỷ cầm quyền hiểu rằng công khai việc làm đớn hèn của Tôn Sĩ Nghị, khiến quân lính nổi giận làm loạn, thì hậu quả sẽ không lường được. Hơn nữa Càn Long, tác giả cuốn Thập toàn võ công ký, tự khoe mình võ công vô địch, vướng phải vết nhơ này, thì còn đâu là thập toàn nữa.

Xét ra, những thảm họa về việc phá cầu không phải chỉ xảy ra một lần trong lịch sử chiến tranh. Khi chiến tranh bùng nổ tại bán đảo Triều-Tiên vào ngày 25 tháng 6 năm 1950, chính phủ Nam Triều-Tiên có kế hoạch phá cầu bắc qua sông Hán để bảo vệ thủ đô Hán-Thành ở phía nam. Nhưng vì quân Bắc Triều-Tiên tiến công quá nhanh, trong cơn hoảng hốt cho giật mìn cây cầu quá sớm, khiến hơn một vạn quân nam Triều-Tiên bị kẹt không rút lui được, nên tinh thần quân dân Nam Triều-Tiên lúc bấy giờ bị suy sụp mau chóng.

4. Trút tất cả lỗi lầm lên đầu Lê Chiêu Thống

Sau khi thất bại, Tôn Sĩ Nghị tìm cách đổ lỗi cho Lê Chiêu Thống, y tố cáo với vua Càn Long rằng:

“Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn Huệ thân tới, sợ hãi gan mật tê liệt, tay bế con nhỏ, cùng với mẹ chạy trốn qua sông Phú Lương; khiến dân tình hoảng hốt, người trong nước rần rần chạy loạn. Thần cùng Ðề-đốc Hứa Thế Hanh lại đốc suất quan binh quyết tâm huyết chiến, nhưng không địch nổi, vì giặc quá đông, vây kín đại binh bốn phía.”

Càn Long thua trận, muốn bỏ cuộc nhưng sợ dư luận chê cười, nhân đó về hùa với Sĩ Nghị để lên án Lê Chiêu Thống. Sự thực các sử sách Hoa Việt đều xác nhận Tôn Sĩ Nghị đã chạy trước Lê Chiêu Thống. Thanh thông giám chép:

“Quốc-vương An-Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn; thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông, chạy lên phương bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.”

Hoàng Lê nhất thống chí cung cấp thêm chi tiết như sau:

“Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhắm hướng bắc mà chạy. …Vua Lê trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa Thái-hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bờ sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi-Tàm thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6, vua Lê và những người tùy tùng chạy đến núi Tam-Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi nơi đó.” (trang 226).

Vua tôi nhà Thanh cảm thấy hài lòng vì đã tìm cách trút mọi lỗi lầm lên đầu Lê Chiêu Thống, để dọn đường cho việc thân thiện với vua Quang Trung trong tương lai.

CHÚ THÍCH

[1] Sử nhà Thanh cố tình nói bớt quân số. Theo Thanh thông giám, lúc bấy giờ dân Trung-Quốc tại vùng biên giới Quảng-Ðông, Quảng-Tây nghe tin quân Nguyễn Huệ sẽ sang trả thù rửa hận, nên đều bỏ chạy để nhà cửa trống không; tình hình như vậy mà chỉ có vài ngàn quân phòng thủ biên giới, thì chắc số lính này cũng không có gan ở lại để phòng thủ! Tham khảo với các sách khác, về quân số nhà Thanh thường nói bớt khoảng mười lần!

[2] Nhà Nguyễn gọi nhà Tây Sơn là giặc, hoặc ngụy Tây.

[3] Thông lệ chung các bộ tiểu thuyết lịch sử thường cường điệu để câu chuyện thêm đậm đà, như Tam quốc chí diễn nghĩa kể chuyện Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi đánh Lữ Bố (Tam anh chiến Lữ Bố) hết sức hấp dẫn; nhưng đây là những sự kiện được tiểu thuyết hóa; còn sử Tam quốc chí của Trần Thọ không chép chuyện này. Ngoài ra, những sự việc như các tướng thách đánh nhau, tướng đánh tướng, là chuyện trong tiểu thuyết, tuồng kịch; còn thực tế, chiến tranh thời xưa cũng không có như vậy

[4] Việt-nam sử lược, Quyển 2, trang 133.

[5] Ðại cương lịch sử Việt-Nam, Tập 1, trang 425.

theo Hồ Bạch Thảo

Nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung lúc mới 39 tuổi:

Công việc xây dựng quốc gia đang tiến hành trôi chảy, thình lình Vua Quang Trung băng hà. Vua băng ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý [79](15-9-1792). Nguyên nhân gây ra cái chết của Vua Quang Trung đã trở thành một nghi án lịch sử. Ðại Nam Chính Biên Liệt truyện ghi rằng:
Huệ trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm lăng tẩm của Liệt Thánh.
Một ngày kia, đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng thấy một lão trượng đầu bạc áo trắng, cầm gậy sắt, từ không trung đi đến, mắng rằng: Ông cha mày đều sanh ở đất Vua, mày sao dám mạo phạm đến lăng tẩm?. Nói dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh, hồi lâu mới tỉnh lại. Từ ấy bịnh càng ngày càng nặng, mới triệu viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về thương nghị việc dời đô ra Nghệ An.
Ðó là lời của sử gia Nguyễn Gia Miêu[80] bịa ra để bôi nhọ Vua Quang Trung. Bịa không được khéo, bởi ai kể lại câu chuyện hoang đường ấy cho viết sử chép? Chẳng lẽ Vua Quang Trung kể lại giấc mộng không mấy đẹp của mình?
Có người bảo nhà vua bị thượng mã phong. Ðó chỉ là chuyện hài hước.
Lại có người độc miệng bảo rằng nhà vua bị Ngọc Hân Công Chúa ám hại bằng cách bỏ thuốc độc vào rượu[81]. Rõ là vu cáo giữa trời!
Thiết tưởng Vua Quang Trung chết vì bệnh huyết áp cao, làm việc nhiều, suy nghĩ nhiều, bị đứt mạch máu. Cái chết đột ngột do bệnh huyết áp cao gây nên thường xảy ra và dân gian thường gọi là trúng gió. Chớ nếu quả có điều ám muội thì dễ gì triều đình Tây Sơn đã để yên.
Truyền rằng:
Mùa xuân năm Nhâm Tý (1792), Vua Quang Trung hay tin Nguyễn Phúc Ánh đã chiếm được Gia Ðịnh và kéo quân ra đánh Quy Nhơn, bèn nổi giận:
- Giống cỏ gấu không diệt tận gốc, cứ nảy ra hoài!
Liền chuẩn bị kéo đại binh vào đánh. Lục quân từ trên đánh xuống, Thủy quân từ dưới đánh lên. Bao vây mặt biển, cắt đứt đường núi, không cho quân Nguyễn chạy thoát.
Mọi việc đã sắp đặt chu đáo thì thình lình nhà vua bị cảm. Bệnh mỗi ngày một nặng. Bèn triệu Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu thương nghị về việc dời đô ra Nghệ An và việc đi đánh Nguyễn Phúc Ánh. Nhưng rồi biết mình không còn sống lâu được nữa, liền trối:
- Ta mở mang bờ cõi gồm cả miền Nam. Nay bênh tình của ta không thể khá được, mà Thái Tử thì còn nhỏ. Phía trong thì bọn quốc cừu hoành hành ở Gia Ðịnh. Còn anh ta thì tuổi già, cầu an, không lo hậu hoạn. Ta chết rồi, trong vòng một tháng phải lo việc tống táng cho xong. Các khanh phải đồng lòng phò Thái tử và sớm lo việc thiên đô để khấu chế thiên hạ. Nếu không vậy, binh Gia Ðịnh kéo đến, các khanh không có đất chôn thây.
Nói rồi băng tại điện Trung Hòa, ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý. Thọ 40 tuổi.Ở ngôi 5 năm.
Thái Tử Nguyễn Quang Toản nối ngôi.

Sự thực thì vua Quang Trung bị Trung Hoa đầu độc. Đó là vì vua Quang Trung sau khi chiến thắng quân Thanh đã có ý định đánh Trung Quốc để đòi lại Lưỡng Quảng (tức Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay). Vùng đất này xưa kia vốn được cho là nơi sinh sống của người Việt cổ. Vua Càn Long của nhà Thanh biết tin này nên rất lo sợ bèn nghĩ ra kế là tặng vua Quang Trung chiếc áo bào nhưng có tẩm chất độc trong đó.

Tương truyền, vào một buổi chiều đầu thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não(theo ngừoi dân địa phuong thi` ông bị 1 bệnh liên quan đến dạ dày)

Chẩn bệnh vua Quang Trung

Bác sĩ Bùi Minh Đức (hiện đang sống ở Hoa Kỳ) gửi đến hội thảo một báo cáo khoa học, hướng đến cái chết của Quang Trung. Để trả lời câu hỏi vì sao Nguyễn Huệ lại qua đời ở cái tuổi sung mãn nhất của người đàn ông, bác sĩ Đức đã khảo cứu các nguồn tài liệu lịch sử với căn bệnh mà sử sách ghi là "huyễn vựng". Ông cũng theo dõi cách điều trị của thái y, cách chăm sóc của Hoàng hậu Ngọc Hân và trạng thái của bệnh nhân trước khi chết, kết hợp với phương pháp nghiên cứu chuyên ngành y hiện đại của nội, ngoại thần kinh, tai mũi họng, tim mạch... Từ những khảo cứu trên, bác sĩ đã đưa ra một giả thuyết về hồ sơ bệnh lý của vua Quang Trung như sau:

"Tên bệnh nhân: Nguyễn Huệ
Giới tính: Nam, nghề nghiệp: chỉ huy quân đội
Tử vong ở tuổi 39. Kết luận bệnh án: Xuất huyết não dưới màng nhện.
Nguyên nhân tử vong: Viêm phổi sặc".
Tình nghi: Độc tố trong long bào TQ


Theo tác giả, bệnh này y khoa hiện đại có thể thử nghiệm chữa trị bằng phương pháp chữa trị của căn bệnh "tai biến mạch máu não" rồi dùng phẫu thuật để điều trị thì có thể qua cơn tai biến và phục hồi.

Tìm thấy một bức thư của Ngô Văn Sở

Cũng từ Hoa Kỳ, tác giả Nguyễn Duy Chính đã đến văn khố của Cố cung viện Bác vật Đài Bắc và tìm thấy một bức thư của Đại tư mã Ngô Văn Sở, người được Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ giao trông coi Bắc Hà. Bức thư Ngô Văn Sở viết cho Phan Khải Đức và Trần Danh Bính. Từ bức thư này cũng có thêm nhiều thông tin liên quan đến con người Ngô Văn Sở. Tư liệu trên cũng cho biết thêm về chiến công của quân Tây Sơn vào mùa hè năm 1786 "chỉ trong vòng 10 ngày là thu phục được Phú Xuân (Huế), tiến thẳng ra Thăng Long": mùa hè năm 1786, Nguyễn Huệ có sai người đưa thư sang nhà Thanh để xin phong vương nhằm làm kế hoãn binh. Càn Long không những không phong vương mà còn cử binh sang đánh nước ta. Về phía Nguyễn Huệ, sau khi cho người đưa thư xong, từ Thăng Long ông tức tốc trở về Phú Xuân tích cực chuẩn bị cho cuộc chống chiến tranh xâm lược từ phía nhà Thanh. Điều này cho thấy tài năng phán đoán thời cuộc của Nguyễn Huệ.

6 bức tranh quý hiếm

Tác giả Nguyễn Đắc Xuân đã giới thiệu 6 bức tranh quý hiếm Bình Định An Nam chiến đồ, do họa sĩ Dương Đại Cương thời Càn Long vẽ để mô tả cuộc chiến tranh xâm lược bất thành của nhà Thanh. Năm 2004, phiên bản 6 bức tranh này được Tạp chí Xưa & Nay tặng Bảo tàng Quang Trung (Bình Định) nhân kỷ niệm 215 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789-2004). Đây là một tư liệu lịch sử hiếm có về quan hệ giữa vua Càn Long và vua Quang Trung thời vừa dứt trận năm 1789. Lần này, phiên bản 6 bức tranh cũng được ông Nguyễn Quốc Vinh - thạc sĩ khoa Ngôn ngữ và văn minh Á Đông của Đại học Harvard, tìm thấy tại thư viện sách quý Houghton của trường Đại học Harvard (Mỹ) và sao chụp đem về VN.

Tác giả Nguyễn Anh Huy, một người sưu tập và nghiên cứu tiền cổ tại Huế đã có báo cáo về khảo cứu đồng tiền dưới thời Tây Sơn có tên Quang Trung thông bảo-An Nam. GS.TS Choi Byung Wook (Hàn Quốc) và thạc sĩ Lê Thị Ngọc Cầm có báo cáo nghiên cứu: Quang Trung giả dưới con mắt của triều đình Choseon (Triều Tiên) đến Trung Quốc năm 1790 về nhân vật Nguyễn Quang Bình bí ẩn... Tổng cộng có 30 bản báo cáo đã được công bố tại hội thảo liên quan đến vị anh hùng dân tộc Quang Trung, một con người huyền thoại vẫn còn nhiều uẩn khúc lịch sử chưa được làm sáng tỏ.


Cái chết của vua Quang Trung do Độc tố trong quần áo Trung Quốc

Trước quan ngại của người tiêu dùng, Cục Quản lý Chất lượng Hàng hóa và Đo lường – Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã tiến hành lấy các mẫu quần áo trẻ em đưa đi kiểm nghiệm. Song theo giới chuyên môn, việc đưa ra kết luận về chất lượng các sản phẩm này sẽ không dễ dàng.

Khó vì chưa có chuẩn

Độc tố trong quần áo Trung Quốc
Nhiều cửa hàng cho hay sức mua quần áo trẻ em nhập ngoại chưa thấy dấu hiệu sụt giảm. (Ảnh: N.N)

Lý do chính của việc sản phẩm có hàm lượng formaldehyde và kim loại nặng vượt quá cho phép bắt nguồn từ việc sử dụng các nguyên liệu thô và sơn. Ảnh: China Daily.

Trao đổi với VietNamNet, ông Trần Quốc Tuấn – Cục phó Cục Quản lý Chất lượng Hàng hóa và Đo lường cho biết, phải sau 1 tuần nữa mới có kết quả cuối cùng về chất formaldehyde có hay không trong quần áo trẻ em xuất xứ Trung Quốc bán tại Việt Nam và nếu có thì ở mức nào.

Nhưng thực tế, sẽ khó có thể đưa ra được kết luận thuyết phục về vấn đề này bởi hiện nay chúng ta chưa có tiêu chuẩn Việt Nam đánh giá mức độ xâm hại, cũng như ngưỡng cho phép của các độc tố như formaldehyde trong quần áo trẻ em nhập khẩu.

Đại diện Phòng Quản lý Chất lượng Hàng hóa số 1 trực thuộc Cục này phản ánh: “Phương pháp thử để xem xét hàm lượng hóa chất trong sản phẩm ở mức bao nhiêu là có, nhưng chưa biết sẽ kết luận thế nào, vì căn cứ là quy chuẩn của Việt Nam thì hiện nay chưa xây dựng được. Sau khi có kết quả kiểm nghiệm, kết luận thế nào sẽ phải xin ý kiến của Tổng cục”.

Không chỉ quần áo mà vải vóc và các phụ liệu dệt may nhập khẩu hiện nay cũng chưa có tiêu chuẩn kỹ thuật quy định về độ an toàn cho người sử dụng.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Thông – Viện trưởng Viện Dệt may cho biết, dệt may là lĩnh vực sử dụng lượng hóa chất rất lớn.

Ngoài chuyện vượt ngưỡng formaldehyde (chất tạo xốp, chống nhăn, bảo quản trong vải) có thể gây dị ứng, viêm da, trong thuốc nhuộm vải còn có hóa chất aezo, nếu hàm lượng vượt quá mức cho phép sẽ gây ung thư hoặc chất Nickel gây nhiễm độc có trong cúc kim loại…

Nỗi lo hàng nhập lậu

Độc tố trong quần áo Trung Quốc

Trong khi Việt Nam chưa có hàng rào kỹ thuật về lĩnh vực này thì các nước trên thế giới và ngay cả Trung Quốc đã ban hành và kiểm soát nghiêm ngặt sự có mặt của những hóa chất nguy hiểm kể trên trong các sản phẩm dệt may nhập khẩu, nhất là đối với trẻ em.

Là đơn vị chuyên nghiên cứu, tập hợp các quy chuẩn, rào cản kỹ thuật trong lĩnh vực dệt may của các nước trên thế giới, đồng thời là nơi kiểm nghiệm, cấp chứng nhận chất lượng cho sản phẩm dệt may xuất khẩu, Viện trưởng Viện Dệt may nhận xét, Trung Quốc đã xây dựng quy chuẩn kỹ thuật về hàng dệt may rất chi tiết, đầy đủ.

“Riêng quần áo trẻ em, theo quy định, tuyệt đối không có các chất độc hại ở ngưỡng phát hiện. Chính vì vừa rồi họ đi kiểm tra độ tuân thủ tại các địa phương, doanh nghiệp mới phát hiện ra hàng may mặc tại tỉnh Quảng Đông không đáp ứng được và công bố rộng rãi thông tin này” – Tiến sĩ Nguyễn Văn Thông nói.

Theo giới chuyên môn, Quảng Đông vốn được mệnh danh là trung tâm cung cấp hàng dệt may lớn nhất châu Á. Thực tế, do yêu cầu của thị trường, mức chất lượng nào họ cũng đáp ứng được.

Đây là điều rất đáng lo ngại khi mà rất nhiều hàng may mặc của Trung Quốc đang được bán ở Việt Nam là vào theo con đường nhập lậu, nguồn gốc trôi nổi, nhãn mác rối ren.

Bà Vũ Kim Hạnh – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ doanh nghiệp (BSA) trong trao đổi trên tờ Thanh Niên cách đây không lâu cho rằng, việc tiến tới ký hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, là việc làm cần kíp thời gian tới nhằm hạn chế hàng nhập lậu.

Tờ China Daily cuối tháng 5/2009 đưa tin, gần một nửa số quần áo và một phần ba đồ gỗ sản xuất cho trẻ em tại tỉnh Quảng Đông – trung tâm xuất khẩu hàng công nghiệp hàng đầu Trung Quốc, là không an toàn, với nhiều sản phẩm có chứa những hoá chất độc hại.

Theo China Daily, kết luận trên được đưa ra sau cuộc điều tra chính thức của cơ quan chức năng tỉnh Quảng Đông. Cuộc kiểm tra được thực hiện đối với quần áo, đồ chơi và đồ gỗ do các công ty trong tỉnh sản xuất, nhân ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6.

Đối với quần áo, cơ quan này đã kiểm tra 60 mẫu quần áo của 43 công ty và phát hiện chỉ 31 mẫu đạt chuẩn an toàn. Như vậy, chỉ có 53,5% mẫu hàng may mặc đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn, còn rất nhiều mẫu chứa hàm lượng formaldehyde quá mức, một hoá chất có thể gây kích ứng da hoặc nhiễm trùng đường hô hấp.

Đối với đồ gỗ dành cho trẻ em, chỉ có 67,7% mẫu hàng có vẻ an toàn, trong khi nhiều sản phẩm đang bị nghi ngờ chứa quá nhiều formaldehyde hoặc những kim loại nặng nguy hiểm đến sức khoẻ của trẻ như chì, cátmi, crom.

Những độc tố trong thực phẩm và sản phẩm TQ gần đây mới phát giác:
Formaldehyde trong đồ hộp và thức ăn cho chó (nhiều con chó chết lăn quay gần đây)
Anti-freeze in thực phẩm trẻ em
Toxic drywall Tường độc tố
Sơn Lead based paint trong đồ chơi trẻ em

Và gần đây nhất hãng Toyota thân bại danh liệt có thể phá sản vì ham của rẻ phụ tùng xe hơi TQ gây tai nạn chết người phải thu hồi! Trên thế giới hiện nay chỉ có lãnh đạo CSVN là vẫn trung thành với sản phẩm TQ và chính sách TQ mà thôi!

Giả thuyết mộ Quang Trung tại Bình Thuận

Hàng trăm năm qua, việc lăng mộ Hoàng đế Quang Trung nằm ở đâu vẫn là điều bí ẩn với nhiều giả thuyết.

Theo sử sách, Hoàng đế Quang Trung băng hà năm 1792 thì mười năm sau cơ nghiệp Tây Sơn đã mất vào tay Nguyễn Ánh. Năm 1802, Nguyễn Ánh sai quật mộ vua Quang Trung ở lăng Đan Dương, giã xương ra trộn với thuốc súng bắn để trả thù.

Bức tượng võ tướng bên ngôi mộ cổ

Thế nhưng có nhiều giả thuyết cho rằng đó chỉ là mộ giả. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì di hài vua Quang Trung hiện vẫn còn dấu tích ở Dương Xuân, Huế. Ông Trần Viết Điền - giảng viên Trường đại học Sư phạm Huế thì lại cho rằng lăng Ba Vành ở đồi Thiên An, Huế mới là nơi có mộ vua Quang Trung. Trong khi đó, tại Bình Thuận có đến hai địa điểm mà nhiều người tin rằng đó mới chính là nơi có mộ của Quang Trung Hoàng đế. Lúc đó, Hoàng hậu Ngọc Hân bí mật đưa di hài chồng mình vào chôn ở đây nhằm tránh việc triều Nguyễn trả thù. Người tìm ra, bảo vệ giả thuyết này cho đến khi qua đời vì bạo bệnh là cô Võ Thị Minh Liêm, một giáo viên Anh văn ngụ ở Hàm Thắng, Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận.

Sinh năm 1956, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, cô giáo Minh Liêm cứ ngỡ sẽ gắn chặt đời mình vào nghề dạy học ở Trường THCS Bông Sao (quận 8, TP.HCM). Nhưng rồi trong một lần về thăm quê, được cha là ông Võ Hồng cho biết ông phát hiện được một ngôi mộ cổ đặc biệt ở núi Cố thuộc phường Phú Hài, Phan Thiết, cuộc đời cô giáo trẻ này rẽ sang bước ngoặt mới. Sau khi ông Hồng qua đời (1990), cô giáo Minh Liêm âm thầm vào cuộc. Cô tìm đến ngôi mộ cổ có pho tượng võ tướng to như người thật, có khắc mấy chữ Hán trên bụng như cha mình mô tả. Ở đó có nhiều ngôi mộ cổ tề tựu xung quanh, trông như hình voi phục. Cô cảm nhận khuôn mặt của bức tượng ở ngôi mộ cổ có nhiều nét giống chân dung vua Quang Trung được lưu truyền. Sau đó tại gần ngôi mộ cổ, một người dân là ông Võ Bách Chiến ở thôn Thắng Hoà (Hàm Thắng) đào ao nuôi tôm phát hiện được bộ xương voi, tương truyền như voi chiến của nhà vua. Cộng với hàng loạt dữ liệu khác mà cô giáo Minh Liêm đã phải đón xe ôm đi hàng trăm cây số ra Cù lao Câu (Tuy Phong), vượt biển ra tận đảo Phú Quý để khảo sát, tìm hiểu, cuối cùng cô khẳng định Hoàng đế Quang Trung được chôn cất bí mật tại khu vực Hàm Thắng. Theo cô, Hoàng hậu Ngọc Hân đã nghe theo lời tiên đoán hậu vận ngắn ngủi của nhà Tây Sơn qua lời của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp nên đã cùng các tuỳ tướng thân tín đưa di hài nhà vua xuôi về Nam. Cũng theo các thuyết trình của cô giáo Minh Liêm thì người chủ khu đất có ngôi mộ toạ lạc là người gốc Bình Định, vùng đất mà nhà Tây Sơn dấy nghiệp. Người vợ ông chủ vườn là dân đảo Phú Quý mà tương truyền là hậu duệ của quân Tây Sơn chạy dạt vào tránh các cuộc truy bắt của quan quân triều Nguyễn.

Cô giáo Minh Liêm cũng cho rằng năm 1802, khi vua Gia Long “tận pháp trừng trị” nhà Tây Sơn thì vua Quang Trung đã mất đúng 10 năm và nhà Tây Sơn đủ thời gian để đưa di hài vua xuôi về Nam Trung bộ mà Bình Thuận là vùng đất mà nhà Tây Sơn thông thạo như lòng bàn tay. Tuy nhiên, điều bất ngờ là sau đó bức tượng võ tướng bên ngôi mộ cổ lại đột ngột biến mất!

Không chồng, con, dạy học được bao nhiêu tiền, cô giáo Minh Liêm lại đổ hết vào các nghiên cứu. Suốt từ năm 1990 đến 2006, cô đã đơn thân chạy đi chạy lại như con thoi ghi chép rồi gửi thỉnh nguyện gần như khắp các ban, ngành có trách nhiệm về giả thuyết của mình.

Hành trình không đơn độc

Ông Trương Văn Thạnh, thầy giáo cũ dạy sử, địa của cô Liêm từ những năm lớp 11, 12 ở Trường Phan Bội Châu (Phan Thiết) kể: “Đó là cô học trò hết sức nhiệt tình và nhiệt tình đến tội nghiệp!”.

Bà Võ Thị Tuyết Hiếu, chị em song sinh với cô Liêm, cũng là một giáo viên Anh văn, cho biết trước khi qua đời mấy năm, nghe tin ở Huế có hội thảo Phú Xuân-Thuận Hoá với nhiều giáo sư sử học đầu ngành, cô Liêm đã chạy vạy khắp nơi kiếm tiền ra Huế xin được tham dự. Lần đó cô Liêm chỉ được dự chứ không được phát biểu. Cô chỉ còn biết tranh thủ trao đổi “hành lang” với các giáo sư trong giờ giải lao. Theo lời kể lại thì lần đó giáo sư Phan Huy Lê đã rất chăm chú lắng nghe giả thuyết của cô, đề nghị cô cung cấp các bằng chứng khoa học để có thể đề xuất mở cuộc khảo sát. Tuy nhiên, bằng chứng đáng nói nhất là bức tượng đã bị mất!

Cũng trong lần hội thảo tại Huế, cô Minh Liêm đã trao đổi với nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân về giả thuyết của riêng mình. Bà Hiếu buồn bã: “Tội nghiệp em tôi, suốt 16 năm trời đeo đuổi giả thuyết, nó xem như đó là duyên nghiệp”. Vì duyên nghiệp và vì muốn giải mã những ngôi mộ cổ ở Hàm Thắng, sau đó cô Liêm lại tiếp tục miệt mài vừa dạy vừa thu thập tư liệu, rồi bằng mọi giá tiếp cận rất nhiều giáo sư, tiến sĩ để thuyết trình. Tuy nhiên, cô chỉ nhận được những lời động viên, lời hứa chứ không có một xúc tiến khảo sát nào.

Thế nhưng có một lần tưởng chừng người đàn bà ấy đã không đơn độc. Người chị song sinh của cô Liêm cho biết khoảng năm 2004, giáo sư Đỗ Đình Truật đã từ TP.HCM cùng với sáu sinh viên khảo cổ đến Hàm Thắng. Họ ở đây hơn một tuần và đo vẽ một số ngôi mộ cổ có hình voi phục. Sau khi những người này rời khỏi Hàm Thắng một thời gian ngắn, các ngôi mộ cổ bị đào bới lén lút vô tội vạ, trở thành phế tích đến nay và câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ...

Đầu năm 2006, một cơn bệnh nan y đã quật ngã người nữ giáo viên đầy nhiệt huyết này. Nằm trên giường bệnh, cô vẫn đau đáu về cuộc hành trình 16 năm của mình chưa có hồi kết. Tháng 3-2006, trước khi xuôi tay, cô đã nắm tay người chị song sinh của mình trăng trối: “Tài liệu, hồ sơ em đã chuyển hết cho giáo sư Phan Huy Lê và Bảo tàng Quang Trung tại Bình Định rồi. Tiếc là em không còn sống để tìm ra sự thật vì có thông tin ấn tín của nhà Tây Sơn được đúc vào năm 1791 (một năm trước ngày vua Quang Trung mất - PN) do một đội cấm quân giữ có tin đã được tìm thấy trên đất Bình Thuận...”.

Lấy lại những gì đã mất

aa

Dân tộc có nguy cơ mất đi tinh thần phản kháng oai hùng của tiền nhân và sống với niềm tự hào dân tộc hão.

Vũ Đông Hà

Tự do bị cướp mất sẽ có ngày lấy lại, Nhân quyền bị giết chết sẽ có lúc hồi sinh. Dân chủ bị bóp nghẹt sẽ có lúc phục hồi. Nhân bản bị chà đạp cũng sẽ một ngày đứng thẳng. Trí tuệ bị thui chột cũng có ngày nở hoa. Tất cả nằm trong tầm tay và ý chí tranh đấu của đại khối dân tộc đối với thiểu số độc tài cùng dòng máu.

Nhưng mất đi một phần lãnh thổ cho ngoại bang thì biết bao giờ mới lấy lại?

Nếu 100 năm sau, khi nhìn vào bản đồ đất nước, thấy Ải Nam Quan, Trường Sa, Hoàng Sa không còn thuộc về lãnh thổ của mình, những thế hệ mai sau sẽ không chỉ nguyền rủa tập đoàn thống trị hiện tại mà còn nguyền rủa cả thế hệ chúng ta, nếu chúng ta không làm gì cả trước sự mất mát của giang sơn.

* * *

Muốn lấy lại những gì đã mất thì phải biết những gì đã mất, đang mất và sẽ mất. Đất nước không chỉ mất đi mấy trăm kí lô mét vuông lãnh thổ, mấy nghìn kí lô mét vuông lãnh hải. Đất nước đang đứng trước hiểm họa mất đi độc lập chính trị, tự chủ kinh tế. Dân tộc có nguy cơ mất đi tinh thần phản kháng oai hùng của tiền nhân và sống với niềm tự hào dân tộc hão.

Muốn lấy lại những gì đã mất thì phải lấy lại quyền làm chủ vận mệnh của chính mình và của đất nước cho mọi người dân. Đất sẽ tiếp tục bị xâm lăng, khai thác, tàn phá; biển sẽ tiếp tục bị tranh giành, thao túng, cướp đoạt, nếu nhà Việt Nam vẫn còn bị một thiểu số dành quyền làm chủ, độc tôn quyết định vận mạng tổ quốc, nhưng sẵn sàng dâng hiến gia sản tổ tiên để củng cố địa vị cá nhân và guồng máy thống trị.

* * *

Vấn nạn của đất nước ngày hôm nay là nguy cơ mỗi con người chỉ lo sợ mất miếng ăn, manh áo, công ăn việc làm hơn là âu lo giang sơn tổ quốc mất đi một vùng biên giới mịt mù, một vùng biển xa xăm. Điều bất hạnh cho một dân tộc sẽ xảy đến nếu tầm nhìn của đại khối chỉ là sự hài lòng với những nhỏ nhoi riêng tư có được mà không biết rằng cuộc đời mình đã bị tước đoạt muôn vàn thứ và coi những mất mát chung không phải là mất mát của riêng mình; không nhận thức rằng sự mất mát chung của dân tộc sẽ tiếp tục dẫn đến mất mát cho từng cá nhân, từng gia đình.

Đất nước ngày nay giống như hình ảnh của sa mạc khô cằn thiếu vắng sự sống. Ở đó, hằng nhiều thế kỷ trôi, đã bao nhiêu người chết khô chết khát. Ở đó, trong tuyệt vọng giữa biên giới tử sinh, đã bao nhiêu người mong đợi một cơn mưa rào. Ở đó, đã có bao nhiêu người không bao giờ nghĩ họ có thể nhìn lại được những ngọn chồi xanh đâm mầm nẩy lộc. Ở đó, họ đã không bao giờ biết được ẩn dấu dưới đó là một gia tài nguyên liệu giàu có, nuôi sống cả một dân tộc, con cháu họ trong tương lai. Đất nước mình cũng thế. Dưới những khô cằn sỏi đá vẫn còn đó một gia tài hơn 4000 năm. Luân lưu ẩn náu trong từng giòng máu, từng hơi thở của mỗi con người là hạt mầm Đại Việt. Những hạt mầm đang ở giữa biên giới tử sinh. Chỉ cần một cơn mưa là bừng sống dậy.

* * *

Bao năm qua, đã bao nhiêu lần ta đối diện với nỗi niềm cô đơn trên con đường này ? 10 năm. 20 năm. 30 năm. Một đời người. Oan khiên nào đã trói chúng ta vào định mệnh của đất nước? Mùi rơm, hương đất, cơn mưa? Điều gì đã níu chặt ta lạ lùng dai dẳng? Một đời người. Một thế kỷ. Một lịch sử hơn bốn nghìn năm. Tại sao chúng ta vẫn miệt mài đi tiếp con đường này ?

Em vẫn không sợ sự ghẻ lạnh cô đơn
Bởi mình khởi đi từ những ngày cô đơn nhất
Bởi giữa hung tàn trong lòng đất nước
Vẫn có người đứng thẳng rất cô đơn [*]

Câu trả lời nằm ở đó. Dưới bầu trời hung hãn, trong trấn áp bủa vây, trước đe dọa ngục tù: vẫn có những người đứng thẳng rất cô đơn. Thì tại sao không? ở mỗi chúng ta?

Câu trả lời nằm ở: những hạt mưa đã rơi trên đất vỡ. Tiếp nối những hạt mưa trước. Mở mùa cho những hạt sau. Hạt mưa Lê Thị Công Nhân. Phạm Thanh Nghiên. Trần Khải Thanh Thủy. Hạt mưa Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung… Những anh thư, anh hùng của thế kỷ 21, bằng gian nan và lao tù, đã đem mưa ngàn tưới mát những hạt mầm đang khô rốc trong nắng hạn.

Câu trả lời nằm ở: con đường hôm nay không phải chỉ cho cuộc đời hiện tại mà cho thế hệ mai sau. Thế hệ chúng ta có thể cúi đầu yên ngủ với thân phận số không của mình. Nhưng sao đành để thế hệ mai sau tiếp tục cuộc hành trình của mây tan biến vào hư không ?

Các bạn đã đứng lên. Để đem mây ngàn trở về sông núi cũ. Đem ý chí xây dựng lại núi hùng sông tráng. Đem khát vọng xua đi bóng mây đen trên vòm trời tổ quốc đến cho nhiều người. Các bạn đang ươm mầm để một ngày cây xanh đổ bóng mát hiền cho thế hệ đàn em. Bây giờ, với các bạn, là những đêm nhìn mây trắng bay từ góc tối nhà tù. Mai sau sẽ là những ngày nhìn trời xanh trong biếc với những cơn mưa rào tưới mát cỏ xanh.

Chúng ta vẫn luôn có một bầu trời thật nhiều mây
Và ngọn đồi sau nhà không còn quanh năm cỏ cháy
Trái hạnh phúc khi dễ dàng hái lấy
Con sẽ không hái cho riêng con mà cho cả cuộc đời [*]

Xin gởi đến

những cánh chim chọn đường gió bão,
những người đứng thẳng rất cô đơn trong bóng tối ngục tù,
những con người không hái trái ngọt
cho riêng mình mà cho cả cuộc đời

niềm tin và lời cảm ơn chân thành.

Vũ Đông Hà

___________________________

[*] Thơ Hương Giang

Thử Tìm Hiểu Vua Quang Trung Đã Cho Chúng Ta Những Bài Học Nào ?

Ôn lại những trang sử oai hùng vô cùng hãnh diện của dân tộc Việt Nam, không ai trong chúng ta không tự hào với chiến thắng Đống Đa của vua Quang Trung Tết Kỷ Dậu (1789) tức là cách đây (2007) đúng 218 năm.

Trong bài này, Bút Xuân muốn cùng bạn đọc nhìn lại đôi nét chính về những công việc của vua Quang Trung đã làm để xây dựng đất nước kể từ sau chiến thắng vẻ vang Đống Đa và từ đó, chúng ta có rút ra được bài học nào hay từ Ngài để phụng sự đất nước chúng ta?

BẮT TAY NGAY VÀO VIỆC

Sau khi lãnh đạo dân tộc đại phá gần 30 vạn quân Thanh khiến tướng Tàu Sầm nghi Đống phải tự tử ở gò Đống Đa, Tôn sĩ Nghị phải chui vào ống đồng trốn về Tàu, xác quân Tàu chồng chất lên nhau chạy làm nghẹt ứ dòng sông Nhĩ Hà, vua Quang Trung vào thành Thăng Long ngày mồng 3 Tết Kỷ Dậu với áo bào nám đen thuốc súng, sớm 4 ngày so với lời hứa của Ngài trước quân sĩ lúc khởi binh đi đánh, tức Ngài hứa ngày mồng 7 sẽ vào thành Thăng Long. (Mờiđọcthêm:www.vienxumagazine.com trang Lịch sử, cùng tác giả)

Vua Quang Trung bắt tay ngay vào những công việc phải làm để xây dựng đất nước. Ngài không chủ quan khinh địch, một mặt đề ra một đường lối để cầu hòa với vua Càn Long nhà Thanh như sai sứ sang triều cống xin được sắc phong, sau đó lại cầu hôn với công chúa con vua Càn Long. Những điều này chỉ là để xoa dịu sự tức bực và mất mặt vì thua trận của vua Càn Long:

Nực cười châu chấu đá xe

Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng!

(Ca dao)

Vua Quang Trung định khi nước ta đã đủ mạnh, Ngài sẽ đem binh đi đòi lại hai tỉnh Quảng đông và Quảng tây, vốn là đất ngàn xưa của Việt Nam, cũng như hồ Động đình, bị người Tàu chiếm cứ. Dù không thực hiện được vì mệnh số vắn vỏi nhưng với tinh thần quật khởi ấy, lòng yêu nước nồng nàn ấy đã là tấm gương sáng chói cho chúng ta muôn đời trong việc dựng nước và giữ nước, nhất là với một kẻ thù lân bang luôn rình rập chờ sơ hở và muốn đồng hóa dân ta với chúng.

THÌ GIỜ LÀ VÀNG BẠC

Mãi đến sau này, những người tân học chúng ta mới đọc được câu:”Le temps est de l’argent” nhưng vua Quang Trung đã biết nó và tận dụng từng phút trong việc kiến thiết nước nhà ngay sau chiến thắng Đống Đa (Ở Âu châu sau đó nổ ra cuộc Cách mạng Pháp 1789).

Vua Quang Trung bắt tay ngay vào việc vì Ngài có quá nhiều công việc phải làm.

Trước tiên Ngài hiệu triệu quần chúng bằng bài “Chiếu cầu Hiền” sau đây, nói lên sự khiêm nhu và trọng hiền đãi sĩ của Ngài:

Nay cuộc đại định mới ở bước đầu, mọi việc còn đang mới mẻ, giềng mối nhà vua có nhiều thiếu sót, việc biên cương cũng ở chỗ dùng dằng chưa ổn định, đức hóa nhà vua chưa được thấm khắp, Trẫm chăm chăm chú chú ngày này qua ngày khác, hàng vạn công việc phải quan tâm. Trẫm nghĩ rằng một cây không thể chống nổi tòa nhà to, mưu lược một kẻ sĩ không thể làm nên cuộc thái bình…”

Trong đoạn văn này, chúng ta thấy vua Quang Trung:

- muốn chia sẻ việc nước với nhân dân. Muốn nhân dân cùng cộng tác với nhà vua để lo việc nước.

- rất khiêm nhu khi Ngài tự nhận rằng một mình Ngài không thể lo xuể, nghĩ xuể. Ngài không phải là một ông vua độc tài toàn trị mà muốn cùng nhân dân cùng lo việc nước. Ngài mời gọi nhân dân, những kẻ có khả năng hăng hái tham dự.

Ngài đã rất lưu ý đến những đòi hỏi tha thiết của nhân dân muốn cho đất nước mau chóng thay đổi để tiến bộ. Vua Quang Trung đã nhận ra sự cấp thiết của việc tái thiết, mỗi ngày trôi qua là một ngày phí phạm. Nhà cầm quyền khôn ngoan cần phải biết tăng tốc mọi công việc cần thiết để đưa đất nước tiến nhanh lên cho kịp với đà tiến hóa của năm châu. Nhà cầm quyền ù lì, ngoan cố, không muốn cho nước tiến bộ, không muốn cho dân giỏi và dân giầu là đắc tội với dân tộc, đất nước.

Vua Quang Trung chủ trương “dưỡng uy xúc nhuệ”. Nếu muốn gìn giữ đất nước phải gầy dựng lại tiềm lực dân tộc để đối phó với âm mưu mới của thù trong giặc ngoài. Ngài đã thốt ra:

Đất đai rộng như thế này, yên lặng mà suy nghĩ để thống nhất, Trẫm run sợ như cầm cái roi mục để kìm giữ sáu con ngựa vậy.”

Là một tướng tài, nói được làm được mà khi nhận lãnh sứ mạng điều khiển đất nước, Ngài đã “run sợ…” cho chúng ta thấy thái độ cẩn trọng của Ngài khi lo việc nước trái với nhiều kẻ coi việc nước như việc nhà, như trò đùa khiến đại sự không thành.

KINH TẾ

Vua Quang Trung xóa bỏ chính sách “ức thương” và “bế quan tỏa cảng”, những hòn đá chận đà tiến của dân tộc từ nhiều thế kỉ trước. Ngài chủ trương khuyến khích công, thương nghiệp. Ngay từ cuối năm 1788, trên đường ra Bắc đánh quân Thanh, vua Quang Trung đã thảo luận về vấn đề kinh tế với La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp ở Nghệ An. Ngài mong ước nước ta có một nền kinh tế độc lập, tự chủ, quan hệ giao thương thật rộng rãi với các nước ngoài, nhất là những nước văn minh tiến bộ.

Từ đó, chỉ vài ba năm sau chiến thắng Đống Đa, các hoạt động về tiểu công nghệ và giao thương trong nước ta đã khởi sắc rõ ràng, nhất là ở kinh đô Thăng Long. Các thủ công nghệ nở rộ ở các phường cũng như sự buôn bán tấp nập ven hồ Tây, Hà Nội.

QUAN HỆ GIAO THƯƠNG VỚI NHÀ THANH

Tuy chiến thắng quân Thanh nhưng suy từ những lời nói và việc hành sử của vua Quang Trung, chúng ta thấy Ngài là một bậc cai trị rất thức thời. Ngài không lo nạn ngoại xâm từ những nước khác mà đặc biệt lưu ý đến nạn xâm lược từ phương Bắc, đã từng xẩy ra trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, kể từ thời Hai Vua Trưng (40 sau Tây lịch), tái diễn nhiều lần, chứng tỏ tham vọng xâm lược của Bắc phương vẫn đè nặng trên giải đất hình chữ S. Lúc đó, vua Quang Trung chưa có phi cơ dò thám, radar canh phòng như ngày nay nhưng đứng ở ải Nam Quan, thác Bản Giốc nhìn qua biên giới, Ngài nhận ra được những nguy cơ từ phương Bắc với khối dân đông hơn mười lần Việt Nam, hiếu chiến, hung dữ và có truyền thống lấy thịt đè người. Mối lo phương Bắc có lẽ là mối lo lớn nhất của vua Quang Trung, cách nay đúng 218 năm!

Vì vậy, ngay sau chiến thắng Đống Đa, vua Quang Trung thiết lập quan hệ giao thương với nhà Thanh, tạo điều kiện cho nhân dân hai nước vùng biên giới được qua lại buôn bán, trao đổi bình thường. Ngài muốn hai bên cùng “mở cửa ải, thông chợ búa, khiến cho hàng hóa không bị ngưng đọng để làm lợi cho người dân tiêu dùng hai nước.”

Tuy đã có lệnh cấm, nhà Thanh buộc lòng phải đồng ý cho dân hai nước qua lại buôn bán ở một số cửa ải dọc biên giới theo đề nghị của vua Quang Trung.

Một năm sau, tức là năm 1790, vua Quang Trung lại đề nghị nhà Thanh cho đặt một cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam ở Nam Ninh (Quảng Tây). Những đề xuất mạnh bạo và hợp lí của vua Quang Trung đã đánh mạnh vào tâm thức giới sĩ phu nước ta vốn được đào luyện bằng học thuyết Tống Nho, lấy cớ “dĩ nông vi bản” để miệt thị công và thương, coi đó là những “nghề ngọn, nghề mạt”. Ngày nay chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi đọc mấy câu sau đây của Ngô thời Nhiệm trong bài phú nhan đề “Làm hay đi”:

…Vậy thì ta nên làm gì?

Ta sửa bài văn của ta và ngâm bài thơ của ta

Ta vâng lời nói của vua và diễn ra thành lời

Mưa thuận thời, ruộng đồng dào dạt

Chỉ một cái cày là xong nghìn khoảng ruộng

Gỗ lạt đã sẵn

Gọi thợ đến, rìu búa giơ lên, thành xà thành cột.

Việc nên làm, đó là việc nông công thương, há nhà nho ta không nghĩ đến hay sao?

Ngô thời Nhiệm cũng như những sĩ phu chân chính đương thời đã chọn đúng hướng đi phù hợp với thời thế và hoài bão của chính họ và cũng là ý hướng chung của dân tộc.

VĂN TỰ VÀ GIÁO DỤC

Vua Quang Trung tuy là một anh hùng áo vải nhưng lại là một kẻ sĩ học rộng, hiểu nhiều, có óc phóng khoáng và thực dụng khác hẳn nhiều sĩ phu đương thời (phản đối việc dùng chữ Nôm cuả nhà vua…). Hẳn Ngài không thể bỏ qua câu nói thời danh của Quản Trọng (Quản di Ngô) thời Đông Chu Liệt quốc:

Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc

Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc

Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân

Kế hoạch một năm, không gì bằng trồng lúa; mười năm, trồng cây và trăm năm, trồng người.

Vua Quang Trung muốn đào tạo một thế hệ mới lấy căn bản là truyền thống văn hóa dân tộc, vượt ra khỏi lối học từ chương, cử nghiệp tầm chương trích cú khi xưa để kẻ sĩ có đủ khả năng bắt tay vào công việc phục sinh đất nước, phục vụ nhân dân đúng nghĩa.

Về văn tự, vua Quang Trung hạ chiếu dùng chữ Nôm trong văn thư hành chánh dùng trong dân gian.

Những cải cách giáo dục này đã được các sĩ phu cộng tác với vua Quang Trung thuận ý và yểm trợ hết lòng dù hai thế hệ vua tôi cách xa nhau cả 30-40 năm ( La Sơn Phu Tử lúc đó đã 70 còn vua Quang Trung mới 36 tuổi). Cụ Nguyễn Thiếp đã dâng biểu lên vua như sau:

Nước Việt ta từ khi lập quốc đến bây giờ, chính học lâu ngày đã mất đi. Người ta chỉ tranh đua với nhau việc học từ chương cầu lợi…Chúa tầm thường, tôi nịnh hót, quốc phá gia vong, những tệ đều ở đó mà ra…”

La Sơn Phu tử chủ trương giáo dục là phải học cho kĩ, ngẫm nghĩ cho tường, học rộng rồi ước lược cho gọn lại, theo điều đã biết mà làm thì nhân tài mới có thể nảy nở mà nước nhà nhờ đó mà vững yên.

Tuy nhiên, lúc đó, ở cuối thế kỉ 18, thời đại của vua Quang Trung (bên Âu châu là cuộc Cách mạng 1789) và các sĩ phu giúp dập Ngài, mọi người chưa thể vượt ra khỏi cái khuôn “Tứ thư” và “Ngũ kinh” của Nho giáo để đào tạo và tuyển lựa nhân tài. Nhưng vua tôi đều đã có ý hướng đào tạo nhân tài bằng đường lối thực dụng, khác hẳn cái học cử nghiệp chi, hồ, giả, dã khi xưa. Đường lối ấy nếu lại được lồng vào một nền Quốc học cơ bản (lúc đó chúng ta chưa có) và truyền thống thì chắc chắn là phải thành công.

Hành trang của vua Quang Trung và các sĩ phu thời đó không gì khác hơn là những điều tối thiết sau đây:

a- Tình yêu nước, yêu dân tộc nồng nàn. Tổ quốc và Nhân dân trên hết.

b- Đồng cảm với sự nghèo khổ thiếu thốn của nhân dân trong một nước nhược tiểu, từ đó Nhà cai trị phải tìm ra con đường đưa nhân dân tới no ấm, hạnh phúc, tự do. Dân có giầu nước mới mạnh. Dân nghèo nàn, nước yếu nhược.

c- Lo trước cái lo của dân, hưởng sau khi dân đã được sung sướng (Tiên nhi ưu thiên hạ chi ưu, Hậu nhi lạc thiên hạ chi lạc). Phúc lợi của nhân dân là chính phúc lợi của nhà cầm quyền bp73i vì Nhà cầm quyền đã được vinh dự lãnh đạo nhân dân, làm cái đầu tầu đứng đầu dân vậy phải cư xử sao cho xứng với niềm tin của nhân dân, chớ vì quyền chức có sẵn trong tay mà đày đọa, trù dập, hà hiếp dân làm dân bất phục và oán ghét.

d- Hoàn toàn tin tưởng vào tiềm năng mạnh mẽ của dân tộc.

Cứ kể ra, còn nhiều điều phụ khác nhưng bốn điều này là những điều cấp thiết buộc phải có nơi một nhà cai trị.

Trong cuộc phục sinh đất nước, vua Quang Trung đã tận dụng mọi thành phần xã hội: sĩ, nông, công, thương, binh khiến ai nấy đều nức lòng đứng sau Ngài để đưa đất nước đi lên, trong đó có những sĩ phu như Nguyễn Thiếp, Ngô thời Nhiệm, Trần văn Kỷ, Phan huy Ích …những kẻ sĩ học nhiều hiểu rộng, cân nhắc được sự lợi hại và con đường của dân tộc nên đi. Các sĩ phu này sẵn lòng phò tá vua Quang Trung vì họ nhận thấy nhà vua là một minh quân sáng suốt, yêu nước và yêu nhân dân thực lòng, ngoài ra Ngài còn là một vị Nguyên soái bách chiến bách thắng, dũng mãnh, ngoan cường đã đánh đuổi kẻ thù chung của dân tộc. Ngài là một bực anh hùng văn võ toàn tài nhưng khiêm nhu và thực sự lo cho dân và yêu thương dân như con chứ không như một số vua chúa khác chỉ lo bảo vệ cái ngai vàng của mình, còn dân nước sống chết ra sao cũng mặc.

Lòng yêu nước của vua Quang Trung đã ảnh hưởng đến các sĩ phu, người ta không thấy trong sử nêu lên những nhũng nhiễu dân lành, tham nhũng, hối lộ trong thời kì cai trị của vua Quang Trung. Đó chẳng phải là một điểm son sáng ngời sao?

Khi vua Gia Long thống nhất được đất nước vì vua Quang Trung bị bạo bệnh băng hà, kẻ sĩ Ngô thời Nhiệm bị nọc ra đánh đòn ở giữa văn miếu, một thứ đòn thù bỉ mặt, nhưng không vì thế mà Ngô thời Nhiệm oán vua Quang Trung. Lại cũng phải nhắc đến lòng trung thành của Nguyễn Thiếp đối với vua Quang Trung trước sau như một.

Những cách trả thù hèn hạ của vua Gia Long càng làm cho sĩ phu và dân chúng thấy được đức độ của vua Quang Trung đối với nhân dân, sĩ phu (cộng tác cũng như không cộng tác) và kẻ thù. (đối xử với lính Tàu thua trận như trên đã nói. Rất hiếm có một ông vua đối xử nhân đạo với kẻ thù như thế.)

VUA QUANG TRUNG SỬA ÐỔI QUAN CHẾ

Chính sử không chép rõ nhưng dã sử có ghi những chức quan thời vua Quang Trung như: tam công, tam thiếu, đại chủng tể, đại tư đồ v.v… Về quân sự thì đặt ra tiền quân, trung quân, hậu quân, tả quân, hữu quân v.v…

VIỆC HỌC

Ðời Tây Sơn dùng chữ nôm trong mọi công văn giấy tờ (khác với trước kia chỉ chữ Nho) vì vua Quang Trung muốn người Việt phải dùng chữ Việt để gây tinh thần tự chủ và văn chương đặc thù, không phải đi vay mượn của Tàu. Ngài rất chú trọng về việc đào tạo nhân tài có tinh thần tự chủ nên trong các kì thi, vua thường bắt các quan ra đề thi bằng chữ nôm, nhưng sĩ tử nhiều người nông cạn và quá nhập nhiễm Nho học nên cho rằng: “nôm na mách qué” mà chỉ trọng Hán văn. Ðiều ấy quá sai lầm nhưng lúc đó làm sao mà giải thích cho những người này hiểu được ý nghĩa sâu xa vua Quang Trung muốn làm cho dân cho nước. Chữ Nho chỉ thực sự xuống giá kể từ khi người Pháp đặt nền đô hộ và du nhập tân học vào Việt Nam. Từ lúc đó, các văn thư hành chánh mới dần dần được đổi sang chữ Quốc ngữ mà chữ Nôm vẫn ít người dùng tới.

CẢI CÁCH ÐINH – ÐIỀN

Nam giới chia làm 3 hạng:

Từ 2 tuổi đến 17 tuổi gọi là “vị cập cách”, chưa đến tuổi để sử dụng.

Từ 18 đến 55 tuổi: tráng hạng, hạng trai tráng dùng được mọi việc binh, lương, sản xuất.

Từ 56 đến 60 tuổi làm lão hạng.

Từ 61 tuổi trở lên là lão nhiêu (không còn thể phục dịch)

Ruộng cũng chia làm 3 hạng:

Nhất đẳng điền, mỗi mẫu phải nộp 150 bát thóc/năm.

Nhị đẳng điền: 80 bát thóc.

Tam đẳng điền: 50 bát thóc.

Lại thu tiền thập vật mỗi mẫu 1 tiền và khoán khố mỗi mẫu 50 đồng.

Ðó là ruộng công điền, còn ruộng tư điền cũng bị đóng thuế tuy nhẹ hơn, theo thứ tự nhất nhị tam: 40, 30, và 20 bát.

VIỆC XÂY DỰNG CHÙA CHIỀN

Vua Quang Trung rất tôn trọng tôn giáo của Nhân dân vì biết rằng niềm tin tôn giáo đã ăn sâu vào tiềm thức người dân nhưng Ngài muốn cải tổ để các tôn giáo (Khổng-Lão-Phật) càng ngày càng xiển dương. Ngài thấy làng nào cũng có chùa mà nhiều người tu hành thì ngu dốt, thiếu tư cách, không mấy người đạt được cái đạo cao sâu của Phật, chỉ mượn tiếng thần thánh mà đánh lừa dân đen nên Ngài xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem vât liệu ở mỗi phủ, huyện làm một ngôi chùa thật to, thật đẹp rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, có đạo đức, ở coi chùa thờ Phật. Còn những người không xứng đáng, mượn chốn thiền môn kiếm ăn, trục lợi có khi còn làm những điều gian ác thì đuổi về cày ruộng làm ăn. Ý vua Quang Trung muốn chỗ thờ Phật phải cho tôn nghiêm mà những người tu hành thì phải là người chân tu mộ đạo mới được.

Những việc cải cách ấy rất chí lí và khôn ngoan nhưng vì nhà Tây Sơn làm vua không được bao lâu nên kết quả chưa có công hiệu là mấy.

VUA QUANG TRUNG MƯU ÐỊNH ÐÁNH TÀU ÐÒI ÐẤT LƯỠNG QUẢNG

Ðể chuẩn bị việc đánh Tàu, vua Quang Trung xuống lệnh cho các trấn bắt dân xã làm lại sổ đinh để tuyển quân sĩ. Ai ai cũng phải ghi danh, được cấp phát một cái thẻ gọi là tín bài khắc 4 chữ “Thiên hạ đại tín” có ghi rõ tên họ quê quán và phải điểm chỉ làm tin. Ai không có thẻ là dân lậu, bắt sung vào quân phòng và bắt tội tổng trưởng (người đứng đầu tổng), và xã trưởng. Từ việc đó có những kẻ thông đồng với xã trưởng làm bậy, thường vào làng vây bắt hỏi thẻ làm cho dân gian nhiễu động, nhiều người phải trốn vào rừng mà ở.

Sổ đinh làm xong, cứ 3 tên đinh, kén lấy 1 người lính. Xong tổ chức thành các đạo, cơ, đội. Quân sĩ phải luyện tập luôn luôn.

Lúc ấy ở bên Tàu có những giặc Tàu ô quấy nhiễu ở miền biển bị quân nhà Thanh đánh đuổi, chạy sang xin với vua Quang Trung, nhà vua thuận cho, đặt tướng Tàu làm tổng binh sai sang quấy nhiễu ở mặt biển nước Tàu. Một số người Tàu thuộc đảng Thiên địa hội làm giặc ở Tứ Xuyên xin được thu phục, vua Quang Trung cũng thu dùng cho người đứng đầu làm tướng.

Công việc tiến hành tốt đẹp, đến năm Nhâm tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu xin câu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng.

PHƯỢNG HOÀNG GẪY CÁNH

Không phải vì kém tài hay thua trí bị kẻ địch sát hại mà vì phần số quá vắn vỏi, cái chết đột ngột của vua Quang Trung sau chưa đầy 4 năm ở ngôi, giữa khi Ngài đang ở độ tuổi trung niên đầy hi vọng, quả là một thiệt hại to lớn cho dân tộc ta không có gì bù lấp được.

Giả sử vua Quang Trung sống thêm được 15-20 năm nữa, chắc chắn đất nước ta có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn minh ở bên ngoài và có thể nước ta cũng vẫn tự chủ như Xiêm La (Thái Lan), không bị Pháp đô hộ. Không bị Pháp đô hộ có nghĩa chúng ta cũng có thể tránh được nạn Cộng sản đô hộ và đất nước tan tành như ngày nay! Một người anh hùng đầy đủ đức độ, một cái “đầu tầu” mạnh mẽ tối cần thiết cho một dân tộc mà hàng nghìn năm mới có một người.

Vua Quang Trung chưa làm cho đất nước ta được nhiều vì yếu tố thời gian nhưng khi “ôn cố tri tân” chúng ta đã học được nhiều bài học về ứng phó với nạn ngoại xâm mới, chính sách trồng người (giáo dục), và mở rộng cửa cho kinh tế và giao thương để làm cho dân giầu nước mạnh.

Những chính trị gia Việt Nam cần phải học nơi vua Quang Trung nhiều bài học, trong đó cần nhấn mạnh:

- cái họa xâm lược phương Bắc

- lòng khiêm nhu. Không kể công với dân tộc về những chiến thắng để trở thành kiêu binh.

- trọng hiền đãi sĩ, yêu nhân dân, đặt Tổ quốc lên trên hết.

- Bài trừ nạn bè cánh, phe phái, đảng phái.

- Chia sẻ việc nước với nhân dân, tin tưởng nhân dân.

- có đại lượng khi đối xử với lính Tàu thua trận còn kẹt lại trên lãnh thổ của ta chưa chạy về Tàu kịp.

- có cơ hội để chạy theo người Pháp xin giúp đỡ nhưng vua Quang Trung đã không thèm e đầu lụy ngoại quốc sẽ mất nước vì ngoại quốc (trường hợp vua Gia Long và nhiều kẻ khác).

Tết Đinh Hợi, 2007 kỷ niệm 218 năm

Chiến Thắng Đống Đa

GS Bút Xuân Trần Đình Ngọc

Tài liệu tham khảo:”Tạp chí Về Nguồn 1980”

và báo chí rải rác.

“Năm trăm năm nhìn lại” Trần đình Ngọc



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email  Thảo luận


Những nội dung khác:
Đưa nàng lên đỉnh [15.08.2022 19:48]




Lên đầu trang

     Tìm kiếm 

     Tin mới nhất 
Nhận được tin vui viện trợ Mỹ được Hạ Viện chấp thuận, quân Ukraine tổng phản công đánh bom tàu ​​cứu hộ lâu đời của Nga ở Crimea
Bí mật 30-4 chưa bao giờ tiết lộ : Quân đội Mỹ và VNCH suýt bắn nhau tan nát vào giờ chót Vì Bị Bỏ Rơi
Viết về ngày Quốc Hận, 30-4-1975
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford!
Nhiều nước thế giới cấm công dân miền Bắc CHXHCNVN nhập cảnh!
Tưởng niệm tháng tư 75
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến
Tưởng niệm cuộc chiến với đại cường TQ anh em môi hở răng lạnh sông liến sông núi liền núi
Tỷ lệ dân số độc thân Việt Nam và Đông Nam Á

     Đọc nhiều nhất 
Ảnh hưởng của Nga đối với phe Trump và đảng Cộng Hoà tại quốc hội làm ngăn chân gói viện trợ vũ khí cho Ukraine để vừa lòng Putin [Đã đọc: 642 lần]
Nhiều thanh niên Ấn, TQ và VN đang du học, lao động hoặc định cu bị Nga bắt lính đưa ra tiền tuyến [Đã đọc: 634 lần]
CSBK chứng tỏ tình yêu đối với Nga: đội mưa hiến máu cứu người - Phú Trọng tha thiết mời Putin thăm VN bảo đảm không bị bắt [Đã đọc: 620 lần]
Không khiếp nhược như CSVN,Philippines 'thách' Trung Quốc ra tòa quốc tế [Đã đọc: 551 lần]
Bấc Công Diệt Nam Cộng thu hết giang san vào tay BK độc quyền trị quốc bình thiên hạ [Đã đọc: 521 lần]
Nhân dân Pakistan chống Tàu cứu nước: Tấn công tự sát nhằm vào nhóm kỹ sư Trung Quốc, 6 người thiệt mạng [Đã đọc: 513 lần]
CHXHCNVN: Vô địch thế giới sinh viên đại học làm kinh tế: mãi dâm 4 lần được cho học [Đã đọc: 503 lần]
Tưởng niệm tháng tư 75 [Đã đọc: 490 lần]
Ukraine trước nguy cơ bị đảng Cộng Hòa của Trump bỏ rơi như VNCH thời TT Ford! [Đã đọc: 475 lần]
Nhiều nước thế giới cấm công dân miền Bắc CHXHCNVN nhập cảnh! [Đã đọc: 437 lần]

Trang chủ :: Tin tức - Sự kiện :: Website tiếng Việt lớn nhất Canada email: vietnamville@sympatico.ca :: Bản sắc Việt :: Văn hóa - Giải trí :: Khoa học kỹ thuật :: Góc thư giãn :: Web links :: Vietnam News in English :: Tài Chánh, Đầu Tư, Bảo Hiểm, Kinh Doanh, Phong Trào Thịnh Vượng :: Trang thơ- Hội Thi Nhân VN Quốc Tế - IAVP :: Liên hệ

Bản quyền: Vietnamville
Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Tân Văn.